Tin tức






Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Truyền thống
Lượt xem: 119
Truyền thống

Chương I

ĐỊA BÀN HỢP GIANG TRONG NHỮNG NĂM ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH

CHÍNH QUYỀN VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1930-1954)

 

I- TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN HỢP GIANG (1930-1945)

Sau khi hoàn thành việc bình định các tỉnh đồng bằng và trung du, quân Pháp tiến đánh các tỉnh phía bắc Việt Nam. Tháng 01 năm 1886, quân Pháp chiếm chiếm Thất Khê làm bàn đạp để tấn công Cao Bằng.

Ngày 24/10/1886, sư đoàn của tướng Messier từ Thất Khê (Lạng Sơn) tiến về phía Cao Bằng. Đến ngày 30/10/1886, quân Pháp chiếm thành Cao Bằng, nhờ ưu thế của vũ khí hiện đại nhưng đi tới đâu cũng bị nhân dân các dân tộc dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh dân tộc, hào trưởng địa phương liên tục đánh trả quyết liệt. Bên cạnh các hoạt động chống trả thực dân Pháp của đồng bào các dân tộc, ở Cao Bằng còn nổi lên hoạt động của Tôn Thất Thuyết , thủ lĩnh của phong trào Cần Vương.

 Tôn Thất Thuyết chiêu nạp một số nhân vật vốn là những quan lại của triều đình như Lương Tuấn Tú, Nghiêm Xuân Phương. Ông đã bí mật cho dán Cáo thị trên tường thành Cao Bằng, kêu gọi các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước.

Cùng với những người thân tín, Tôn Thất Thuyết hạ trại bao vây thành Cao Bằng. Nhờ sự ủng hộ bí mật của viên Án sát Cao Bằng[1],Tôn Thất Thuyết chiếm được thành Cao Bằng, nhưng không có ý định giữ lâu dài. Sau khi thiết lập một căn cứ phòng thủ ở phía bắc thành, ông rút về Mỏ Sắt, đem theo Bố chính Phạm Hài và tử hình y tại Mỏ Sắt.

Sau khi đánh chiếm Cao Bằng, ngày 05/8/1896, Toàn quyền Đông Dương phân chia lại các Đạo Quan binh. Theo đó, địa bàn phường Hợp Giang, thị xã Cao Bằng trở thành thủ phủ của Đạo quan binh 2.

Trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào kháng Pháp, buộc thực dân Pháp  phải rải lực lượng ra nhiều nơi, nhưng nơi nào chúng cũng bị bao vây, tiến đánh. Ở thị xã Cao Bằng, lực lượng địch chỉ còn 76 lính, tập trung ở địa bàn phường Hợp Giang, chúng phải huy động cả thương binh tham gia phòng thủ.

Ngày 21/11/1905, thực dân Pháp thiết lập tại Cao Bằng Đạo quan binh thứ hai của xứ Đông Dương. Địa bàn Hợp Giang trở thành bản doanh của Đạo quân binh Pháp và là tỉnh lỵ, nơi các cơ quan của chính quyền thực dân Pháp chiếm đóng.

 Thực dân Pháp xây dựng thị xã Cao Bằng thành lỵ sở của Đạo quan binh thứ 2. Cuối thập kỷ 1930, từ 1935-1940, quân Pháp tiến hành xây dựng pháo đài quân sự ở thị xã, kiên cố vào loại bậc nhất ở Đông Dương. Chúng cho nhiều gia đình người Hoa ở sát biên giới vào sinh sống tại Hợp Giang, một số dân ở các châu trong tỉnh và các tỉnh miền xuôi cũng đến sinh sống. Phố Thầu trở thành phố đông đúc, thành nơi giao lưu kinh tế, có nhiều cửa hiệu buôn lớn của người Hoa. Người Hoa đến ngày một đông, sống tập trung trong một dãy phố mang tên phố Khách. Do dân số tăng, nhà ở, cửa hàng, chợ búa, nhà thờ đạo Công giáo cùng các chùa, miếu cũng được xây dựng.

Năm 1920, thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc khai thác các thuộc địa nhằm vơ vét sức người, sức của, các tư sản người Pháp và tư sản Hoa Kiều ở địa bàn Hợp Giang,  nhanh chóng mở rộng kinh doanh thương nghiệp, vận tải và dịch vụ để thu lợi nhuận. Năm 1926, ở Hợp Giang đã hình thành những khu vực trồng rau, nuôi tằm, kéo tơ, dệt thổ cẩm. Tại Hợp Giang, khoảng năm 1926, Pháp xây dựng máy nhiệt điện (tại khu vực Đài phát thanh - Truyền hình hiện nay) công suất 80kw, có khoảng 20 công nhân vận hành, ngoài ra tại địa bàn Hợp Giang có một số khách sạn, rạp chiếu bóng và tiệm khiêu vũ.

Chính quyền đế quốc phong kiến chỉ chú trọng vơ vét bóc lột mà không hề chăm lo đến xây dựng nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Dưới ách thống trị của chúng, nền sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào Pháp, năng suất trồng trọt thấp và bấp bênh, đời sống đói khổ, tầng lớp nghèo khổ ngày thêm đông. Giai cấp thống trị cố duy trì chế độ phong kiến, làm chỗ dựa để thực hiện âm mưu bóc lột đến tận cùng người lao động. Công nhân ở thị xã có số lượng không đông, phần lớn là thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ. Nông dân lao động nghèo khổ, bị áp bức bóc lột, bị bần cùng hóa, có lòng căm thù đế quốc phong kiến, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng ở địa phương.

Truyền thống lâu đời của nhân dân Hợp Giang là sản xuất tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp. Với sự phát triển của yếu tố tư bản chủ nghĩa trong sản xuất và lưu thông, trong từng thời gian, do nhu cầu thương nghiệp chi phối, tầng lớp tiểu thương đã hình thành và phát triển, tập trung nhiều ở phố chính như phố Thầu, Vườn Cam, phố Cũ

Văn hóa, giáo dục, y tế của thị xã chịu ảnh hưởng của chế độ thuộc địa. Trước năm 1920, tại địa bàn Hợp Giang có trường sơ học và tiểu học. Học sinh đến trường bị lừa bịp, để nhằm ca ngợi công ơn nước "Đại Pháp" và xuyên tạc chủ nghĩa Cộng sản. Ngoài ra học sinh cũng được học lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến đầu thời Nguyễn. Nhân dân trên 90% không biết chữ. Tuy nhiên, do những nhu cầu trực tiếp của công việc khai thác thuộc địa cũng như việc đào tạo  người bản xứ phục vụ bộ máy cai trị, chính quyền thực dân vẫn phải chú ý tới việc mở một số trường học, dù rất hạn chế. Vào năm 1932, toàn Cao Bằng có một số trường học, tập trung chủ yếu ở địa bàn Hợp Giang, thị xã Cao Bằng.

Về y tế, cả thị xã Cao Bằng chỉ có một trạm Y tế  tại địa bàn Hợp Giang chỉ có một nhà thương duy nhất với khoảng 10 giường bệnh (đặt tại khu vực Sở Lao động - Thương binh xã hội hiện nay), nhân dân ốm đau thường chỉ biết trông vào cúng bái. Trong khi đó những tiệm rượu, thuốc phiện, sòng bạc lại mọc lên, là những chỗ vừa bóc lột về kinh tế vừa xô đẩy nhân dân vào cuộc sống ăn chơi, không ít người khánh kiệt gia tài chỉ vì cờ bạc, nghiện hút. Bọn thống trị còn khuyến khích phát triển mê tín dị đoan, thần quyền, tôn giáo nhằm nô dịch nhân dân về tinh thần.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), thực dân Pháp thực hiện kế hoạch khai thác triệt để ở Đông Dương. Chúng đẩy nhân dân ta vốn đã nghèo đói ngày càng thêm cơ cực hơn.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển loài người, mở ra con đường phát triển mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu nước đã khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Người đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước những năm 1925 - 1926 ở trong nước. Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - một tổ chức yêu nước do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu (Trung Quốc) đã có tác động mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng trong nước, thu hút nhiều trí thức và thanh niên yêu nước lần lượt sang Quảng Châu gia nhập vào tổ chức cách mạng.

Ngày 03/02/1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập. Đây là một bước ngoặt lịch sử của phong trào cách mạng Việt Nam.

Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, những cao trào cách mạng sôi nổi trong các năm 1930 - 1939, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có ảnh hưởng sâu sắc, vang dội trong các tầng lớp nhân dân cả nước.

Những sự kiện lịch sử nói trên có tác động sâu sắc đến các tầng lớp nhân dân ở Cao Bằng nói chung và Hợp Giang nói riêng. Phong trào cách mạng Cao Bằng lúc này dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Đảng ngoài nước được thành lập ở Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc). Chi bộ cộng sản đầu tiên của Cao Bằng ra đời ngày 1/4/1930 ở Nặm Lìn, xã Hoàng Tung (châu Hòa An). Ngay sau khi thành lập, chi bộ đã hoạt động như Ban Tỉnh uỷ lâm thời và đề ra hai nhiệm vụ: thứ nhất là tích cực phát triển Đảng đặc biệt là ở khu mỏ thiếc Tĩnh Túc và ở thị xã; thứ hai là đẩy mạnh phong trào chống thuế, chống phụ thu lạm bổ, chống bắt phu vào ngày mùa, đi phu phải được cấp tiền gạo.

Được sự chỉ đạo của ban Tỉnh ủy lâm thời, các tổ chức yêu nước quần chúng như Hội đánh Tây, Hội thanh niên phản đế thu hút nhiều thanh niên yêu nước tiến bộ nên các cơ sở cách mạng được xây dựng ở hầu hết các châu. Năm 1930, thị xã đã xây dựng được nhiều cơ sở tại vùng ven và có  cả cơ sở  tại Vườn Cam - Hợp Giang là các trạm liên lạc giữa Tỉnh ủy với Xứ ủy và Trung ương.

Từ đó phong trào cách mạng càng ngày càng phát triển và đòi hỏi sự lãnh đạo của tổ chức Đảng. Cùng thời gian đó phong trào cách mạng ở các Tổng, các xã đều được Chi bộ Nặm Lìn tích cực chỉ đạo tuyên truyền phát triển để xây dựng nhiều cơ sở, chắp mối liên lạc giữa các địa phương, nhằm đưa phong trào cách mạng tiến lên. Thực hiện chủ trương xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh rộng khắp để không ngừng đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng. Đồng chí Hoàng Văn Lịch[2]1 (bí danh là Hồng Việt) quê làng Gia Cung, (nay thuộc phường Ngọc Xuân) có quan hệ thân tộc với nhiều đồng chí ở chi bộ xã Xuân Phách (nay là phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng). Là một cán bộ cốt cán của đảng được phân công tuyên truyền, xây dựng cơ sở, hướng dẫn những hoạt động yêu nước của các tầng lớp nhân dân trong làng Gia Cung. Những thanh niên yêu nước nhiệt thành được tổ chức dìu dắt, họ càng hăng hái hơn. Sau một thời gian tìm hiểu, tuyên truyền giáo dục, các đồng chí Phi Long (tức Nông Văn Thiết), Đại Phi tức Nông Bá Rong), Phi Hổ (tức Thế Minh) được kết nạp vào Đảng. Tháng 7/1931, chi bộ Gia Cung (nay thuộc phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng) được thành lập gồm 4 đồng chí, do đồng chí Hồng Việt làm Bí thư. 

Căn cứ vào nhiệm vụ do Ban Tỉnh ủy lâm thời đề ra, ngay sau khi thành lập,  chi bộ đã định ra chương trình công tác và chú trọng: tích cực tuyên truyền giác ngộ quần chúng yêu nước, xây dựng các Hội quần chúng trong khu vực Hợp Giang và nhiều khu vực khác, tổ chức rải truyền đơn, chống thuế, chống bắt phu, vận động công nhân đòi ngày làm 8 giờ, đòi tăng lương.

Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, các Hội yêu nước, các cơ sở cách mạng, nhất là các cơ sở vùng ven ngày càng phát triển mạnh đã có ảnh hưởng trực tiếp vào nội thị - đó là địa bàn phường Hợp Giang. Để chuẩn bị điều kiện xây dựng những cơ sở cách mạng ngay trong nội thị, Ban Tỉnh ủy lâm thời đã chủ trương xây dựng cơ sở những vùng ven Hợp Giang, tích cực tuyên truyền, tiến tới xây dựng cơ sở cách mạng trong Hợp Giang.

Nhờ hoạt động tích cực của các đồng chí đảng viên, các tổ chức cách mạng và sự giác ngộ của quần chúng nhân dân, ngày Quốc tế lao động 01/5/1930, truyền đơn cách mạng đã được rải ở trung tâm thị xã tức địa bàn Hợp Giang. Ngày 01/5/1931, lại xuất hiện truyền đơn ủng hộ Xô viết Nghệ Tĩnh ở nhiều khu phố ở Hợp Giang. Trong những năm 1932- 1934, cờ đỏ búa liềm đã nhiều lần được treo ngay trong địa bàn Hợp Giang, nơi mà kẻ địch tập trung mọi quyền uy, khống chế mọi hoạt động của quần chúng.

Phong trào cách mạng ở Thị xã có quan hệ chặt chẽ với phong trào của châu  Hòa An, là một châu nằm bao quanh thị xã, sự trưởng thành nhanh chóng của phong trào cách mạng ở Hòa An có tác dụng tích cực tạo những thuận lợi cho phong trào của thị xã. Đồng thời phong trào ở thị xã đã hỗ trợ, tạo những điều kiện thuận lợi cho phong trào của Hòa An, cũng như các châu trong tỉnh.

Trong những năm từ 1933-1936, Hợp Giang - thị xã Cao Bằng trở thành một trong những trạm liên lạc bí mật quan trọng của tỉnh. Các chuyến liên lạc từ tỉnh ủy đến Xứ ủy Bắc Kỳ đều qua bến ô tô thị xã - đặt tại địa bàn Hợp Giang. Tại đây các cơ sở cách mạng đã tổ chức bí mật đưa đón, bố trí cho các đồng chí lãnh đạo qua lại hoạt động như Hoàng Đình Giong, Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ...

Năm 1936, trạm liên lạc được đặt tại nhà chị Hoàng Thị Đào ở phố Vườn Cam và hòm thư bí mật được đặt tại miếu Thổ công ở phố Vườn Cam, địa bàn Hợp Giang.

Tình hình ở Đông Dương lúc này thuận lợi cho mọi hoạt động của Đảng ta. Một mặt, do sự biến đổi chính trị ở Pháp. Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, phát động một cao trào đấu tranh đòi những quyền lợi dân sinh dân chủ thiết thực cho quần chúng, chống các nguy cơ phát xít và chiến tranh.

Đảng bộ Cao Bằng đã vận động nhân dân các dân tộc trong tỉnh hưởng ứng phong trào “ Đông Dương Đại hội”, và dự thảo bản “dân nguyện” đòi thực hiện cải cách dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân. Mở đầu cho cuộc đấu tranh công khai hợp pháp là cuộc biểu tình vào tháng 8/1936, của hơn 500 đồng bào các dân tộc từ các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình, Thạch An, Quảng Uyên về  khu vực Hợp Giang- trung tâm thị xã Cao Bằng đòi chính quyền thực dân thừa nhận Cao Bằng được cử đại biểu tham gia “Đông Dương Đại hội”.

Năm 1937, Gustin Gôdard đại diện Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp, sang điều tra tình hình Đông Dương và lên Cao Bằng. Thực hiện chỉ thị của tỉnh, các cơ sở đảng đã vận động quần chúng tham gia rầm rộ, các châu Quảng Uyên, Hà Quảng, Nguyên Bình… đều cử đại biểu ra tỉnh tham gia cuộc biểu tình có khoảng 2000 người, đón đoàn đại diện Chính Phủ mặt trận bình dân Pháp đưa bản “Dân nguyện” cho Gustin Gôdard đặc phái viên của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng đến chiều ngày 25/2/1937, tại km8, đường đi Nguyên Bình, đoàn biểu tình đã đưa bản “Dân nguyện” cho Gutin Gôdard đặc phái viên của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Cuộc biểu tình của gần 2000 đồng bào các châu và thị xã Cao Bằng đã trở thành cuộc mít tinh lớn, thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, tỏ rõ nguyện vọng thiết tha tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình của dân tộc.

Với tinh thần đoàn kết gắn bó, nhân dân Hợp Giang đã phối hợp hỗ trợ ủng hộ các đoàn đại biểu kéo vào thị xã. Từ năm 1937-1938 có nhiều đoàn đại biểu nông dân kéo vào trung tâm thị xã đòi chính quyền thực dân Pháp phải hoãn thu, giảm thuế, bỏ các khoản thu vô lý đè nặng lên cuộc sống của người dân. Phong trào chống đi phu  phát triển mạnh, điển hình là năm 1937, hơn 300 người bị bắt đi phu làm đường tại khu vực km5 (nay thuộc phường Đề Thám) đã tổ chức đình công, tập hợp thành đoàn biểu tình kéo lên phủ Hoà An, rồi về Hợp Giang - trung tâm thị xã gặp chính quyền thực dân, đưa yêu sách khi đi phủ phải được gạo ăn, phải trả tiền công, không được bắt phu.  Đầu năm 1938, chi bộ Gia Cung chỉ đạo tổ chức cuộc đấu tranh có trên 40 người tham gia, vào thẳng dinh tuần phủ (ở địa bàn Hợp Giang) để đưa đơn chống phụ thu, lạm bổ. Chính quyền thực dân phải nhận đơn và hứa giải quyết.

Để kịp thời truyền đến các tầng lớp nhân dân những chủ trương của Đảng, tin tức chung của cách mạng, tại Phố Cũ và Vườn Cam, Chi bộ đã chỉ đạo mở các đại lý bán sách báo tiến bộ như "Đời nay", "Tiếng vang", "Tin tức", "Lao động", "Chuông giải phóng" xuất bản tại Hà Nội. Thông qua báo chí công khai đã kịp thời truyền đến các tầng lớp nhân dân những chủ trương của Đảng, những tin tức chung của cách mạng. Thông qua tờ báo công khai của Đảng, quần chúng được tập hợp, được hướng dẫn về tổ chức và phương pháp đấu tranh. Các đại lý bán sách báo tiến bộ trở thành những đầu mối liên lạc giữa các cơ sở cách mạng, giữa cơ sở với Tỉnh ủy; là nơi chuyển giao các tài liệu bí mật của Đảng.

Từ trong phong trào cách mạng của quần chúng, nhiều cán bộ vượt qua thử thách, trưởng thành nhanh chóng. Do phong trào phát triển mạnh, một số đảng viên bị trục xuất khỏi mỏ thiếc Tĩnh Túc, những năm 1936- 1939, như đồng chí Bùi Văn Giao, Nguyễn Thanh Cao đến thị xã, xây dựng cơ sở cách mạng hoạt động ở  khu vực Nước Giáp để móc nối với phong trào nội thị.

Tại địa bàn Hợp Giang, nơi đặt bản doanh của chính quyền thực dân phong kiến, nơi mà chúng tập trung các thủ đoạn đàn áp những hoạt động yêu nước, quyền tự do dân chủ của quần chúng nhân dân, nơi mà chúng đặt hy vọng từ đó khống chế phong trào cách mạng trong toàn tỉnh, những hy vọng của địch ngày càng bị phá vỡ. Cuộc vận động dân chủ, với những kết quả của nó đã khẳng định vai trò tổ chức, lãnh đạo của Đảng và trình độ của quần chúng khi có tổ chức Đảng ra đời.

Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới lần thứ II  bùng nổ, bọn thực dân càng tăng cường khủng bố, đàn áp dã man hơn. Ở Cao Bằng vào cuối năm 1939, đầu năm 1940, thực dân Pháp và tay sai ra sức khủng bố phong trào cách mạng của quần chúng, triệt phá các cơ sở cách mạng ở nông thôn cũng như ở thị xã. Địch bố trí mạng lưới kiểm soát dày đặc ở các đường ra vào thị xã, mật thám rình mò vây bắt tra tấn dã man cán bộ và những người bị tình nghi là cơ sở cách mạng. Trước tình hình đó, Đảng chỉ đạo cần nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật. Những cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực chưa bị lộ vẫn bám sát cơ sở, kiên trì vận động tổ chức quần chúng tiếp tục đấu tranh.

Sang năm 1940, chiến tranh thế giới có những chuyển biến mới, ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Tháng 6/1940, Chính phủ phản động Pháp đầu hàng phát xít Đức. Tháng 9/1940, phát xít Nhật thôn tính Đông Dương từ tay Pháp. Nhân dân ta từ đó sống trong cảnh nô lệ một cổ hai tròng. Thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai ra sức vơ vét bóc lột nhân dân ta. Do ảnh hưởng chiến tranh, hàng hóa ngày càng khan hiếm đắt đỏ. Đời sống nhân dân nhất là công nhân, thợ thủ công, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác ngày càng bần cùng điêu đứng.

Trong bối cảnh đó, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài về Pác Bó (xã Trường Hà, Hà Quảng Cao Bằng) để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Cao Bằng được chọn làm nơi thực hiện chương trình thí điểm Việt Minh và tổ chức các đoàn thể cứu quốc.

Tại Pác Bó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước, quyết định triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (họp từ ngày 10 - 19/5/1941) tại lán Khuổi Nặm - Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã phân tích và nhận định sáng suốt về tình hình cách mạng thế giới, đồng thời khẳng định sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cách mạng nhiều nước sẽ thành công.

Theo sáng kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất dân tộc rộng rãi lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh); các tổ chức quần chúng đều lấy tên là Hội cứu quốc như Thanh niên cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Học sinh cứu quốc đoàn… Mặt trận Việt Minh có nhiệm vụ đoàn kết tất cả các lực lượng yêu nước trong xã hội Việt Nam, không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, địa vị xã hội ở cả nông thôn và thành thị trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa.

 Thấm nhuần Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ Tám, Tỉnh ủy Cao Bằng được Trung ương trực tiếp chỉ đạo đã nhanh chóng xây dựng chương trình hoạt động cụ thể, Ban Việt Minh lâm thời của tỉnh được Trung ương chỉ định hình thành. Nhiều người hăng hái tham gia vào các đoàn thể cứu quốc như Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân. Hoạt động của Việt Minh phát triển nhanh. Tháng 7/1941, Hội nghị đoàn thể và Việt Minh châu Đá Rừng (tên bí mật châu Hoà An) họp tại căn cứ Lam Sơn, bầu Ban Việt Minh lâm thời châu Hoà An, bầu Ban chấp hành các tổ chức. Châu Hòa An kề sát bên thị xã, phong trào Việt Minh ở Hòa An có ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào của thị xã. Do vị trí quan trọng, bị địch kìm kẹp, o ép  nên cách mạng chưa gây được nhiều cơ sở ngay trong nội thị, chưa phát động được phong trào cách mạng sâu rộng. Trong khu vực Hợp Giang tuy gặp khó khăn hơn nhưng cũng đã có một số đồng chí được tuyên truyền giác ngộ cách mạng thông qua các quan hệ họ hàng, gia đình đang sinh sống ở vùng ven thị xã. Tổng bộ Việt Minh Tổng Hồng Việt, tổng Cao Bằng đã tích cực tuyên truyền, gây cơ sở vào nội thị.

Trước tình hình để đối phó với tình thế cách mạng của quần chúng. Địch tiến hành nhiều đợt hành quân khủng bố, càn quét bao vây, đốt phá xóm làng, bắt nhiều hội viên Việt Minh. Nhiều lần địch tấn công vào vùng Lam Sơn hòng tiêu diệt cơ quan chỉ đạo đầu não của tỉnh và Liên khu ủy. Nhà tù của địch tại thị xã (ở cuối phố Thầu và phố Kim Đồng hiện nay) gian giữ rất nhiều chiến sĩ cách mạng và người yêu nước.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và những hoạt động tích cực của các đảng viên vùng ven, phong trào cách mạng của thị xã đã có bước tiến mới.

Bước tiến mới của phong trào cách mạng ở Hợp Giang là bước tiến đầy sóng gió nhưng tiến lên một cách vững chắc. Từ một vài cơ sở lúc ban đầu, khi có sự chuyển hướng đấu tranh còn túng lúng và bị tổn thất trong chống địch khủng bố, đến đầu năm 1945 cơ sở cách mạng đã phát triển rộng lớn. Hầu hết các khu phố đã có các đoàn thể cứu quốc. Những cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ hoạt động trực tiếp trong địa bàn Hợp Giang đã phát huy được tinh thần dũng cảm cách mạng, biết dựa vào nhân dân, xây dựng cơ sở cách mạng từ trong lòng nhân dân, biết coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, tập hợp quần chúng vào các tổ chức cách mạng, từng bước chuẩn bị về tổ chức, tư tưởng để tiến lên làm cách mạng giải phóng khi thời cơ đến.

Đầu năm 1945, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến sâu sắc. Liên Xô tấn công mãnh liệt vào dinh lũy cuối cùng của phát xít Đức nhằm giải phóng châu Âu. Phát xít Nhật ngày càng thất bại nặng trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II.

Ở tỉnh Cao Bằng, tình thế cách mạng cũng đang nhanh chóng xuất hiện do phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được tổ chức và đang phát triển mạnh mẽ. Bộ máy chính quyền của thực dân Pháp đang sụp đổ từng mảng.

Tại thị xã, đêm 11/3/1945, quân Nhật đã bí mật giết tên lính gác của Pháp rồi rút vào Nguyên Bình. Trước tình hình đó, tên chỉ huy quân Pháp ở pháo đài đã giao cho một đơn vị giữ pháo đài, còn lại hơn 800 lính, sĩ quan và viên chức Pháp rút  khỏi pháo đài cùng những điểm đóng quân ở Hợp Giang, chạy vào các châu miền Đông, tìm đường sang Trung Quốc. Trước khi rút khỏi Hợp Giang, chúng đã bắn súng, ném lựu đạn vào những nơi giam giữ các chiến sĩ yêu nước. Nhân dân Hợp Giang và vùng ven đã nhanh chóng kéo đến vây quanh nhà tù đấu tranh kiên quyết với hành động dã man của kẻ địch buộc bọn chúng phải bỏ chạy. Ngày 13/3/1945, sau khi chiếm được Nguyên Bình, Tĩnh Túc, quân Nhật quay trở lại thị xã Cao Bằng hợp với cánh quân từ Lạng Sơn kéo lên, đưa tối hậu thư buộc quân Pháp đang cố thủ ở pháo đài phải đầu hàng. Thị xã Cao Bằng hoàn toàn rơi vào tay quân  Nhật và sau đó chúng tiếp tục đánh chiếm các huyện lỵ trong tỉnh, chấm dứt chế độ thống trị của thực dân Pháp trên đất Cao Bằng.

Sau khi đánh chiếm Hợp Giang và toàn thị xã cùng những vị trí xung yếu trong tỉnh, phát xít Nhật tiến hành củng cố chỗ đứng chân, xây dựng bộ máy chính quyền tay sai làm chỗ dựa cho chúng.     Quân Nhật đã sử dụng tên Bố chánh Nguyễn Tòng vào chức vụ tỉnh trưởng và lập ra "tỉnh chính phủ". Chính quyền bù nhìn tay sai đã ra thông báo chiêu an nhân dân, kêu gọi nhân dân hợp tác với Nhật.

Địa bàn Hợp Giang, thị xã Cao Bằng là nơi tập trung quân đội Nhật và bọn phản động tay sai, do bị phát xít Nhật kiểm soát gắt gao, nên phong trào khu vực nội thị gặp khó khăn hơn. Nhưng cơ sở Việt Minh vẫn bí mật tìm mọi cách hoạt động, các Ban Việt Minh khu phố được thành lập để lãnh đạo nhân dân chống Nhật… Vì vậy truyền đơn vẫn được rải ở các khu phố, vận động thanh niên trốn phu, chống bắt lính, tìm cách lôi kéo một số công chức đang làm việc trong bộ máy địch về với cách mạng. Các đoàn thể ở các khối phố, các thôn, xóm ngoại thị và khu Nước Giáp hoạt động công khai. Quân Nhật khi mới đặt chân tới thị xã đã bị quân ta đánh ngay một trận, quân dân ta giành thắng lợi. Cơ sở Việt Minh khu Nước Giáp là cơ sở bí mật tập kết của quân ta chuẩn bị đánh Nhật.

Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình cách mạng cả nước cũng như ở địa phương, Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng đã họp tại Lam Sơn (xã Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng) nghiên cứu quán triệt chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và quyết định một số vấn đề quan trọng: Phân công cán bộ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân về các địa phương phối hợp cùng với đội vũ trang tổ chức lực lượng đánh Pháp. Không tập kích vào quân đội Pháp khi chúng tháo chạy mà kêu gọi họ cùng ta đánh Nhật. Tiến hành bao vây kinh tế địch, triệt để thực hiện “vườn không nhà trống”, phá hoại đường sá, cầu cống, cắt đứt liên lạc của địch.

Trong tình hình diễn biến phức tạp và nhanh chóng của phong trào cách mạng, Nghị quyết của Liên Tỉnh ủy đã kịp thời đáp ứng những đòi hỏi của phong trào cách mạng ở địa phương.

Tại Hợp Giang, thị xã, những chủ trương của Liên Tỉnh ủy nhanh chóng được tổ chức thực hiện. Truyền đơn được rải ở các khu phố, nhất là nơi đóng quân của Nhật, nhằm vạch mặt phát xít Nhật và bọn tay sai thân Nhật. Ta vạch rõ tính chất phản động của những luận điệu "Nhật - Việt đềhuề", "Nhật - Việt đoàn kết", "Nhật sang Việt Nam đánh Pháp là để giúp người Việt Nam giành độc lập, thoát khỏi ách nô lệ" là nhằm lừa bịp và lôi kéo nhân dân ta.

Vào thời điểm giữa năm 1945, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước đầu có ý nghĩa to lớn, cổ vũ phong trào tiến lên giành những thắng lợi quyết định. Trước tình hình khẩn trương đó, để thống nhất chỉ đạo chung các hoạt động trong nội thị, tháng 7/1945, Tỉnh ủy tập hợp các đồng chí hoạt động trong các khu phố thành lập Ban Việt Minh thị xã do đồng chí Sơn Nhân làm  chủ nhiệm.

Được lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh. Ban Việt Minh thị xã khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa. Các cơ sở cách mạng của Hợp Giang ở phố Cũ, Vườn Cam, Nước Giáp. Nước Giáp là một xóm nhỏ nhân dân chuyên nghề trồng rau và đánh cá trên sông, nhà ở rải rác, tuy nằm trong nội thị, kề ngay ngã ba giữa sông Hiến và sông Bằng, song vốn có quan hệ dòng họ với các xóm bản ven ngoài, vào mùa khô nước sông rút nên nông hơn, người có thể lội qua để vào thị xã, thuận lợi cho liên lạc với vùng căn cứ bên ngoài. Nước Giáp lúc đó là một thôn cách mạng của xã Ngọc Sinh (thuộc châu Hòa An). Các hội viên cứu quốc ở Nước Giáp bí mật chặt tre đóng nhiều mảng, may cờ đỏ sao vàng, bố trí người dẫn đường khi lực lượng vũ trang tiến vào trung tâm thị xã Cao Bằng.

Còn các xóm bản vùng ven có cơ sở Việt Minh vững chắc từ trước, là nơi quân ta bí mật tập kết. Trong ngày 20/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa của tỉnh ra mệnh lệnh: “phải chiếm được thị xã trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật. Chính quyền cách mạng sớm giành chủ quyền ở thị xã để giao thiệp với quân Đồng minh với tư cách là chủ”. Không khí chuẩn bị tổng khởi nghĩa sục sôi. Quân giải phóng siết chặt vòng vây chuẩn bị tiến công vào sào huyệt cuối cùng của giặc Nhật ở nội thị.

Trước ngày tổng khởi nghĩa 21/8/1945, tại Bản Ngần (nay thuộc xã Vĩnh Quang), đồng chí Hoàng Đình Giong, đã gửi tối hậu thư bắt quân Nhật đầu hàng và giao lại cho ta toàn bộ số vũ khí của Pháp mà chúng chiếm được. Sau khi chuyển từ Bản Ngần về Khau Roọc, đồng chí Hoàng Đình Giong viết thư thông báo cho quân Tưởng Giới Thạch, nói rõ chỉ được phép dừng lại ở chân núi Kỳ Sầm, không được tiến quân vào thị xã Cao Bằng.

Được sự hỗ trợ của nhân dân, rạng sáng ngày 21/8/1945, một bộ phận quân giải phóng dưới sự chỉ huy của đồng chí Hoàng Đình Giong đã tiến vào Hợp Giang từ ba ngả: Nước Giáp, Nà Phía, Thanh Sơn. Cũng sáng ngày 21/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa gửi tối hậu thư cho tên quan hai Nhật cùng những tên tay sai đang cố thủ ở pháo đài yêu cầu đầu hàng và giao nộp vũ khí. Trước sức mạnh như vũ bão của quân cách mạng, nhận thấy không thể kéo dài sự ngoan cố với cách mạng, đến 12 giờ trưa ngày 21/8/1945, quân Nhật và bọn tay sai buộc phải chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, phải giao nộp cho Việt Minh pháo đài và kho vũ khí của quân Pháp mà chúng chiếm được.

Chính quyền bù nhìn thân Nhật buộc phải chuyển giao toàn bộ thị xã cho lực lượng cách mạng. Quân Nhật và lính bảo an hoảng sợ rút về pháo đài không dám chống cự. Chủ trương của ta là tranh thủ quân Nhật. Đồng chí Hoàng Đình Giong, Trưởng ban khởi nghĩa của tỉnh đã vào thẳng pháo đài gặp tên quan tư Nhật điều đình, buộc chúng chuyển giao cho ta toàn bộ vũ khí chúng thu được của Pháp. Ta đã nhanh chóng đưa số vũ khí thu được ra khỏi thị xã về khu căn cứ đề phòng quân Tưởng  Giới Thạch cướp lại. Cùng với nhiệm vụ cần kíp đó, đồng chí Hoàng Đình Giong đã điều động các đội Giải phóng quân, các đội tự vệ, du kích chiếm lĩnh Sở Liêm phóng, Sở Công chính, nhà tù, trại Bảo  an binh, thu toàn bộ vũ khí súng đạn.

Ngay trong đêm hôm đó, bọn Nhật bí mật rút khỏi thị xã theo hướng quốc lộ 3 tìm đường về xuôi. Bọn lính bảo an bị bỏ rơi. Lâm vào tình trạng hoang mang, bị động, tên giám binh bảo an Nông Văn Khuyến đã tìm gặp chính quyền cách mạng nộp 45 khẩu súng và đạn dược. Hơn 30 lính bảo an cũng mang theo vũ khí ra ngoài vùng căn cứ chạy sang hàng ngũ của cách mạng ở khu Nước Giáp.

Sáng ngày 22/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa huy động hàng nghìn quần chúng ở các khu phố nội thị xuống đường, tuần hành thị uy biểu dương lực lượng cách mạng. Cuộc tuần hành như một ngày hội lớn, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp các đường phố, quần chúng vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập”, “Ủng hộ cách mạng”, “đả đảo thực dân Pháp, phát xít Nhật” rồi tiến về làm lễ mít tinh tại chùa Phố Cũ, tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai thân Nhật, thành lập Uỷ ban nhân dân lâm thời thị xã do đồng chí Lê Huyên làm chủ tịch, chào mừng Uỷ ban nhân dân lâm thời của tỉnh  ra mắt toàn dân.

Ngày 21 và 22/8/1945, là ngày hội cách mạng sôi nổi nhất của quần chúng thị xã Cao Bằng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã lập được chính quyền hợp pháp của tỉnh, và của thị xã trước khi quân Tưởng Giới Thạch tiến vào. Đồng thời, ta cử một đoàn đại biểu thay mặt Uỷ ban nhân dân lâm thời tỉnh giao thiệp với quân đội Tưởng Giới Thạch theo quy chế đồng minh, nhằm bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nền độc lập tự do mà dân tộc ta vừa giành được.

Trong khi những chuyển biến mới của cách mạng đang dồn dập diễn ra, thì hơn một vạn quân Tưởng Giới Thạch do tên tướng Tiêu Văn chỉ huy, dưới danh nghĩa Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật đã kéo vào Cao Bằng. Đi đến đâu, chúng cũng cướp bóc lương thực, trâu bò… của nhân dân ta.

Từ ngày 20/8/1945, quân Tưởng Giới Thạch đã đến phía bắc Thị xã nhưng do nước sông dâng cao, ta đã tháo dỡ một nhịp cầu sông Bằng, nên chúng không vào được Hợp Giang, đến sáng ngày 23/8/1945, tướng Tiêu Văn đã đốc quân lính vào bản chặt tre, gỗ, cây chuối, đóng mảng vượt sông Bằng. Theo sau quân Tưởng Giới Thạch còn có cả bè lũ Việt Nam cách mạng đồng minh hội, do Nguyễn Hải Thần cầm đầu và một số tên thực dân Pháp chạy sang Trung Quốc cấu kết với quân Tưởng Giới Thạch. Tiêu Văn đóng ở chùa Tàu (tức chùa phố Cũ), Nguyễn Hải Thần đóng ở trường nữ học Nước Giáp.

Khi chúng chiếm Hợp Giang - trung tâm thị xã, quân Tưởng Giới Thạch ra sức cướp bóc tài sản, bắt giữ cán bộ và nhân dân, không ngày nào không xảy ra xung đột ở chợ, trên dọc đường phố. Để lừa bịp, lôi kéo quần chúng và tạo địa bàn hoạt động. Quân Tưởng Giới Thạch đã lập ra cái gọi là “Nam dương Hoa kiều hiệp hội”, Tỉnh hội “Nam dương Hoa kiều hiệp hội” đặt trụ sở tại Hợp Giang, thị xã Cao Bằng, lấy Hợp Giang làm trung tâm chỉ huy, chỉ đạo các hoạt động của đặc vụ Quốc dân đảng và tiếp tục gây dựng “hội” này xuống các huyện trong tỉnh. Chúng kích động lôi kéo Hoa kiều và một số người Việt tham gia tổ chức "Nam dương Hoa kiều hiệp hội" là tổ chức tay sai phản động làm chỗ dựa. Theo chân quân Tưởng, bọn tay sai phản động trong tổ chức Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội) do Nguyễn Hải Thần cầm đầu, kéo vào Cao Bằng, đến Hợp Giang, Thị xã Cao Bằng, chúng đóng tại Trường tiểu học Trung Văn[3]1. Bọn đầu sỏ của tổ chức này ỷ thế quân Tưởng Giới Thạch, tuyên truyền cho sức mạnh của Trung Hoa dân quốc, cấm dân ta không được treo cờ đỏ sao vàng, lập các đội vũ trang, phát vũ khi, tập quân sự, đêm đi tuần tra canh gác, tăng cường chỉ điểm cho quân Tưởng bắt bớ, ám sát cán bộ. Đi đến đâu cũng cướp thóc gạo, bắn giết trâu bò, ngựa, vơ vét của cải, lương thực của nhân dân. Quân Tưởng Giới Thạch còn thường xuyên ra lệnh thiết quân luật ở thị xã Cao Bằng, ngăn chặn, truy bắt cán bộ của ta một cách trắng trợn. Những hành động ngang ngược của quân Tưởng Giới Thạch làm cho tình hình thị xã ngày càng phức tạp, nhất là địa bàn Hợp Giang.

Đứng trước tình hình mới, Tỉnh ủy chủ trương: Thành lập Thành bộ Việt Minh thị xã thay thế Uỷ ban nhân dân lâm thời để giao dịch với quân Tưởng Giới Thạch. Thực hiện chủ trương trên, tháng 12/1945, Thành bộ Việt Minh thị xã được thành lập. Nhờ những chủ trương vừa mềm dẻo vừa kiên quyết cứng rắn, chính quyền các cấp ở trong tỉnh đều được giữ vững; đồng thời chỉ đạo: tránh đụng độ quân sự với quân Tưởng Giới Thạch, một mặt tranh thủ chúng, một mặt giáo dục quần chúng nhận rõ bản chất phản động, xâm lược của chúng, vận động quần chúng tổ chức đấu tranh hợp pháp có lý, có tình, tiếp tục phát huy vai trò hợp pháp của chính quyền cách mạng đã ra công khai. Thực hiện chủ trương mới, nhân dân thị xã với khẩu hiệu "Việt - Hoa thân thiện", tiến hành đấu tranh khôn khéo với quân Tưởng Giới Thạch. Đồng chí Giang Tô[4]2 được giao nhiệm vụ làm đại diện Việt Minh tiếp tục giao dịch với quân Tưởng Giới Thạch. Hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng non trẻ là đội ngũ quần chúng biểu dương lực lượng, nhân dân bãi thị, học sinh bãi khóa, tẩy chay các cuộc lễ do chúng tổ chức. Quân Tưởng Giới Thạch và bọn tay sai đóng quân, quấy nhiễu ở thị xã ba tháng nhưng vẫn không lật đổ được chính quyền cách mạng.

Đồng thời, trước khí thế đấu tranh của nhân dân ta, quân Tưởng buộc phải thả toàn bộ những người bị chúng giam giữ trước đó, công bố chiêu dụ an dân và đem bắn một số tên lính đã phạm tội.

Ngày 15/11/1945, quân của tướng Tiêu Văn rút về xuôi, một đơn vị của tướng Lư Hán đến thay thế và đóng ở Phố Cũ. Bọn chúng được Mỹ trang bị các loại vũ khí mới, tuy chỉ có một trung đội đóng ở phố Cũ nhưng thái độ rất ngang ngược, yêu sách, nhũng nhiễu chính quyền ta phải cung cấp cho chúng lương thực, thực phẩm, tự ý kiểm soát người ra vào nội thị- tức Hợp Giang. Đã có lần chúng đưa quân bao vây doanh trại bộ đội ta đóng ở Hợp Giang. Sau một thời gian, quân Tưởng Giới Thạch thấy rõ sức mạnh của chính quyền cách mạng được nhân dân ta ủng hộ, còn các hoạt động của bọn tay sai thì bất lực, nên tháng 3-1946, chúng buộc phải rút khỏi địa bàn Hợp Giang và toàn bộ thị xã Cao Bằng.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, các cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng ở Hợp Giang đã tích cực khẩn trương, chủ động, phát động đông đảo các tầng lớp nhân dân vùng dậy đấu tranh, góp phần giành chính quyền ở thị xã.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở thị xã tháng 8/1945, thực sự là ngày hội của quần chúng, đó là sức mạnh đã đè bẹp mọi thế lực của kẻ thù. Lực lượng tự vệ giữ vị trí xung kích trong trường hợp cần thiết cùng với lực lượng quần chúng tạo thành sức mạnh to lớn áp đảo quân thù, bảo đảm giành thắng lợi. Sự kiện các tầng lớp nhân dân thị xã dưới sự lãnh đạo của Đảng vùng dậy làm cuộc khởi nghĩa; đập tan chính quyền địch, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân  dân, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hợp Giang dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng dậy đập tan chế độ xiềng xích hàng ngàn năm của thực dân phong kiến, giành được quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, là thắng lợi của cả một quá trình vận động cách mạng từ việc xây dựng những cơ sở đầu tiên đến cuộc vận động dân chủ dân sinh, tiếp đó là thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Đó là cả một quá trình phấn đấu đầy hy sinh gian khổ nhưng thắng lợi vẻ vang, là sự kết tinh rực rỡ truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, ý chí sắt đá và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

II- NHÂN DÂN HỢP GIANG THAM GIA XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN, KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, do hậu quả của chính sách áp bức bóc lột nhiều năm của thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai phản động làm trì trệ mọi tiến bộ xã hội, nền kinh tế kiệt quệ. Chính quyền cách mạng thị xã hoạt động trong bối cảnh quân Tưởng Giới Thạch vẫn đóng ở tại địa bàn phường Hợp Giang  nhằm thực hiện âm mưu tiêu diệt chính quyền non trẻ của nhân dân.

Khi quân Tưởng Giới Thạch kéo vào, các đảng phái phản động "Nam Dương Hoa kiều hiệp hội", "Quốc dân đảng", "Đại Việt quốc gia liên minh", "Việt Nam phục quốc hội", và bọn Việt gian, quan lại cũ tập trung tại các khu phố ở địa bàn Hợp Giang ra sức chống phá cách mạng.

Cầu Bằng Giang bị gãy, đường xe đi các huyện và các tỉnh bạn ách tắc từ tháng 3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp làm cho Hợp Giang - Trung tâm thị xã thiếu nhiều mặt hàng nhu yếu như gạo, muối, vải, thuốc chữa bệnh, văn phòng phẩm... Trên thị trường, lưu thông các loại tiền "Đông Dương" của Pháp, "Quan kim" của Trung Quốc làm rối loạn giá cả. Bệnh viện, trường học, bưu điện, nhà máy điện, các cơ sở sản xuất đều ngừng trệ. Bộ máy quản lý một xã hội mới chưa được kiện toàn vẫn dựa vào Việt Minh là chính. Đời sống nhân dân còn rất khổ cực. Bệnh tật lây lan nhanh, nhất là ghẻ lở, dịch tả, thương hàn; nạn mù chữ vẫn còn nặng nề. Song nhân dân ta đã thực sự làm chủ cuộc sống của mình, sẵn sàng đem hết mọi khả năng để bảo vệ quyền làm chủ, đó là thuận lợi rất cơ bản.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã đem lại độc lập tự do cho các dân tộc, nhưng đất nước cũng đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách cần phải giải quyết. Trong phiên họp đầu tiên (ngày 03/9/1945) của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu việc cấp bách cần làm ngay:

Một là, phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói, mở một cuộc  lạc quyên để giúp đỡ những người nghèo.

Hai là, mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là, tổ chức cuộc tổng tuyển cử thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là, mở một phong trào giáo dục cần - kiệm - liêm - chính để bài trừ các thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là, bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Chính quyền thị xã đã vận động nhân dân các khu phố đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng “Quỹ độc lập”, tổ chức “Tuần lễ vàng”, tích cực mở các lớp bình dân học vụ để xoá nạn mù chữ, xây dựng “nhà cứu quốc” để làm lớp học và làm nơi hội họp của các đoàn thể.

Dựa trên tinh thần sáu nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay và chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Trung ương Đảng, nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nêu rõ: đấu tranh với âm mưu xâm lược của Tưởng Giới Thạch và bè lũ tay sai, tiêu diệt thổ phỉ và phản động địa phương, củng cố chính quyền cách mạng các cấp từ xã đến tỉnh, tăng gia sản xuất để chống đói và mở phong trào xóa nạn mù chữ, đồng thời làm hết sức mình để chi viện cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam.

Dưới ánh sáng của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân thị xã đã quán triệt: giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu sau Cách mạng Tháng Tám.

Tháng 11/1945, danh sách Ủy ban nhân dân lâm thời Thị xã được biểu quyết thông qua trong một cuộc mít tinh lớn của nhân dân tại sân Đoàn Kết[5]1, do đồng chí Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch, để điều hành mọi công việc kháng chiến. Với tinh thần dân chủ, mọi người dân đều được quyền tham gia vào công việc chung của đất nước. Để thực hiện chủ trương chung, bảo đảm quyền làm chủ nhân dân, đập tan sự xuyên tạc của kẻ thù, thể hiện sự tín nhiệm của nhân dân đối với chính quyền cách mạng, Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban lâm thời thị xã, nhân dân các khu phố ở Hợp Giang đã nô nức đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Ngày bầu cử đầu tiên 6/01/1946 diễn ra như một ngày hội lớn của những người lao động ở thị xã. Mọi cử tri đều được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Cao Bằng có vinh dự được bầu 4 đại biểu vào Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tháng 3/1946, nhân dân các khu phố Hợp Giang lại nô nức đi bầu Hội đồng nhân dân thị xã khóa đầu tiên, 30 đại biểu đã được nhân dân tín nhiệm với số phiếu cao. Phiên họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân thị xã đã bầu ra Ủy ban hành chính thị xã do đồng chí Nông Văn Tiến (tức Quang Ngọc) làm Chủ tịch, đồng chí Lê Duy Kỳ làm Phó chủ tịch và đồng chí Nhất Tam làm ủy viên.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Thị xã đã thành lập Ban dân quân tự vệ, củng cố về mặt tổ chức lực lượng, nâng cao chất lượng tự vệ và chiến đấu của các khu phố, các làng, để đảm nhiệm nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ chính quyền cách mạng, chống lại những hành động phá hoại của bọn phản động. Vũ khí chủ yếu là giáo, mác, dao găm, cung tên, gậy gộc, ... và một số súng đạn lấy được của Nhật, Pháp. Chưa bao giờ thanh niên nam, nữ thị xã hăng hái tham gia luyện tập tự vệ như thời gian này. Luyện tập quân sự trở thành một phong trào rộng rãi, một nét sinh hoạt hàng ngày của nhân dân thị xã. Để nắm vững các động tác quân sự, các đội viên tự đẽo lấy súng gỗ để tập luyện khắc phục tình trạng thiếu súng. Nhiều đội viên tự vệ đã tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn tham gia chiến đấu trên chiến trường cả nước. Nhiều thanh niên các khu phố Hợp Giang đã xung phong vào đội quân Nam tiến cùng đồng bào miền Nam kháng chiến chống Pháp.

Tại địa phương, đối với những tổ chức phản động, các lực lượng của ta vừa tuyên truyền, giáo dục những người lầm đường làm tay sai cho giặc trước đây, vừa kiên quyết trừng trị những hành động ngoan cố phá hoại thành quả của cách mạng.

Đối với quân Tưởng Giới Thạch, ta vận dụng sách lược tạm hòa hoãn để giành thời gian củng cố chính quyền, khắc phục dần những khó khăn, chuẩn bị thực lực cho cách mạng. Vận dụng những sách lược mềm dẻo, Ủy ban nhân dân thị xã đã kiên quyết đấu tranh với những hành động ngang ngược của quân Tưởng, buộc quân Tưởng Giới Thạch từ chỗ không chịu thừa nhận chính quyền ta đến chỗ phải tiếp xúc và thương lượng với chính quyền cách mạng. Lúc đó, tuy quân Tưởng Giới Thạch đóng ở các khu phố Hợp Giang và Pháo đài, ta không chủ trương đánh lại chúng, nhưng đã chỉ đạo nhân dân không hợp tác, không bán lương thực, thực phẩm cho chúng. Vì vậy, làm cho chúng gặp nhiều khó khăn về hậu cần, những biện pháp của ta đã góp phần hạn chế sự phá hoại của chúng và bọn tay sai phản động, các lực lượng của ta và nhân dân tranh thủ thời gian củng cố chính quyền.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, Tỉnh ủy đặc biệt quan tâm đến công việc đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên cho Thị xã cả về số lượng và chất lượng, làm cho năng lực của cán bộ, đảng viên ngày một nâng cao. Đồng thời chú ý xây dựng cơ sở Đảng ở những nơi có vị trí quan trọng trong thị xã. Từ 5 đảng viên đầu năm 1946 đến cuối năm, Thị xã đã có trên 50 đồng chí sinh hoạt trong 5 chi bộ, trong đó có 4 chi bộ nội thị. Tháng 10/1946, Tỉnh ủy ra quyết định thành lập Đảng bộ Thị xã và chỉ định đồng chí Nguyễn Khắc Tuân (tức Nhất Tam) làm Bí thư. Đảng bộ trực tiếp chỉ đạo toàn bộ công việc của thị xã, trọng tâm là địa bàn phường Hợp Giang.

Một trong những vấn đề cấp bách mà Đảng bộ và chính quyền cách mạng phải tập trung giải quyết là nhanh chóng ổn định đời sống mọi mặt cho nhân dân. Cũng như toàn tỉnh, Đảng bộ và nhân dân thị xã sau Cách mạng tháng Tám phải gánh chịu hậu quả nặng nề do chế độ cũ để lại: nền kinh tế nghèo nàn, lại bị chiến tranh tàn phá, hơn 90% nhân dân không biết chữ, những tệ nạn mê tín, cờ bạc, nghiện hút ngày càng phát triển. Thực tế đó đặt ra cho chính quyền cách mạng những nhiệm vụ hết sức nặng nề.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, phong trào thi đua tăng gia sản xuất, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau được phát động rộng rãi trong toàn thị xã. Thực hiện khẩu hiệu "Tấc đất, tấc vàng", hè phố, ven đường, những nơi trước đây địch xây dựng đồn bốt đều được san bằng để trồng rau, ngô, khoai, sắn.

Ngành tiểu thủ công nghiệp của thị xã được khôi phục dần. Dưới chế độ thống trị của Pháp, chỉ có một nhà máy nhiệt điện vào loại nhỏ có công suất 80kw. Kinh tế thị xã vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu. Khắc phục dần thực tế đó, đầu năm 1946 thị xã đã thành lập Liên đoàn cơ khí vận tải bộ. Khôi phục lại vận tải ô tô, sửa chữa cải tiến xe ô tô từ chạy xăng sang chạy bằng than củi, để kịp thời cho nhu cầu vận chuyển hành khách, hàng hóa trên một số tuyến đường trong tỉnh và tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tu sửa lại nhà máy điện, chuyển xưởng cơ khí Lê Tổ từ Lam Sơn (Hồng Việt, Hòa An) về thị xã, đặt tại trường Nữ học ở Nước Giáp, tiếp tục sản xuất mà chủ yếu là sản xuất gươm giáo, kiếm để trang bị cho các đội tự vệ, dân quân, du kích. Các ngành tiểu thủ công nghiệp kịp thời sản xuất các công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, và các mặt hàng tiêu dùng thông thường cho nhân dân. Ngành thương nghiệp đã mua từ các tỉnh miền xuôi những mặt hàng thiết yếu như muối, vải, dầu thắp, thuốc chữa bệnh, giấy, bút chuyển lên thị xã góp phần nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân. Từ cuối tháng 12/1946, tỉnh bắt đầu nhận muối của Trung ương phân phối về tỉnh để dự trữ cho cuộc kháng chiến. Chi  cục ngoại thương của tỉnh thành lập vào cuối năm 1946 hoạt động dưới dạng mậu dịch tiểu ngạch qua biên giới Việt - Trung đã có tác dụng tích cực góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến chung cũng như ổn định tình hình đời sống của nhân dân thị xã và cung cấp cho các tỉnh miền xuôi.

Để bảo đảm nhu cầu chi tiêu và khắc phục những khó khăn trước mắt về tài chính, thực hiện sắc lệnh của Chính phủ về xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức "Tuần lễ vàng", nhân dân thị xã đã tự nguyện đóng góp tiền và vàng vào công quỹ kháng chiến. Uỷ ban nhân dân lâm thời đã mở văn phòng tiếp nhận tại Phòng thông tin thị xã đặt tại Phố Thầu. Nhiều cá nhân, nhiều gia đình tự nguyện nô nức mang nhẫn, hoa tai, dây chuyền, những vật kỷ niệm quý báu của mình hiến vào công quỹ góp sức cùng cả nước giải quyết những khó khăn trước mắt. Song song với những thắng lợi bước đầu trên mặt trận kinh tế, tài chính, chính quyền cách mạng còn có những cố gắng lớn và giành được nhiều thành tích trên lĩnh vực văn hóa. Ngay từ trước Cách mạng Tháng Tám, ở Thị xã phong trào truyền bá chữ quốc ngữ diễn ra sôi nổi thu hút đông đảo quần chúng tham gia nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên.

 Trong một thời gian ngắn, các lớp bình dân học vụ được tổ chức khắp các khu phố, lôi cuốn từ các em nhỏ đến các cụ già. Ban bình dân học vụ của thị xã được thành lập để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ ngoài nhiệm vụ chính còn kiêm nhiệm giảng dạy cho các lớp bình dân học vụ, ngày đêm lăn lộn trong phong trào.

Với truyền thống hiếu học và ý thức trách nhiệm trước những công việc cấp bách của đất nước, với tinh thần quyết tâm diệt giặc dốt, nên chỉ sau một năm đã có hàng nghìn người thoát nạn mù chữ. Kết quả của công tác xóa nạn mù chữ đã góp phần nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân.

Để chăm lo sức khỏe và đề phòng dịch bệnh chính quyền cách mạng kêu gọi các y tá thời Pháp trở lại làm việc. Bệnh viện thị xã được hoạt động lại, mở lớp đào tạo đội ngũ cán bộ y tế để chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Tuy còn nhiều khó khăn thiếu thốn về phương tiện, thuốc chữa bệnh, nhưng với tinh thần phục vụ nhân dân, bệnh viện đã nhận khám và chữa cho mọi người bệnh.

Cùng với sự hoạt động của chính quyền, các đoàn thể quần chúng hoạt động mạnh mẽ. Bên cạnh các hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc đã có từ trước, nay có thêm các hội Công nhân cứu quốc, Thương nhân cứu quốc... hầu như mọi người dân đều đứng trong một tổ chức cách mạng, đó là chỗ dựa cho chính quyền cách mạng.

Thấy không thực hiện được âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, và sự thay đổi nhanh chóng trên các mặt do cách mạng tạo ra, trước sức phản kháng mạnh mẽ của cách mạng, quân đội Tưởng Giới Thạch buộc phải rút khỏi Hợp Giang và những điểm đóng quân ở thị xã Cao Bằng vào tháng 3/1946. Về phía thực dân Pháp sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, và Tạm ước ngày 14/9/1946, chúng vẫn ngoan cố ráo riết thi hành những chính sách phản động, âm mưu đặt lại ách thống trị nước ta một lần nữa.

Thực dân Pháp ngày càng bộc lộ dã tâm xâm lược nước ta lần nữa. Để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Đảng bộ và nhân dân thị xã vừa ra sức xây dựng địa phương, khắc phục mọi khó khăn, củng cố chính quyền cách mạng, vừa chăm chú theo dõi và góp sức mình vào sự nghiệp "Kháng chiến kiến quốc" của cả nước. Ngay khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở Nam Bộ bùng nổ, nhân dân thị xã đã mít tinh ủng hộ và gửi những người con, em thân yêu của Thị xã cùng với các huyện trong tỉnh gia nhập đoàn quân Nam tiến nhanh chóng lên đường cùng với nhân dân ta ở miền Nam tiến hành kháng chiến.

Cuối tháng 12/1946, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng họp hội nghị mở rộng tại thị xã nhằm nghiên cứu quán triệt chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của Trung ương Đảng và lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, để kiện toàn bộ máy chỉ đạo kháng chiến, Ủy ban kháng chiến của thị xã được thành lập, do đồng chí Nhất Tam làm Chủ tịch. Thị đội dân quân cũng được thành lập, do đồng chí Dương Toàn Nghĩa làm Thị đội trưởng. Mọi công việc chuẩn bị cho kháng chiến được tiến hành khẩn trương. Ta gấp rút xây dựng an toàn khu tại Nà Cốc (xã Canh Tân, huyện Thạch An), mua gạo và muối dự trữ tại đó, lập các phương án tổ chức nhân dân tản cư đến. Cả thị xã trong không khí khẩn trương chuẩn bị bước vào kháng chiến. Trên các mặt tường, các đường phố, thanh niên kẻ các khẩu hiệu: "Không đi lính cho Pháp", "Không làm việc cho Pháp", "Không bán lương thực cho Pháp", "Không đưa đường cho Pháp", "Mỗi đường phố là một mặt trận, mỗi người dân là một chiến sĩ"...

Tại các khu phố Thầu, phố Cũ, Vườn Cam đều có một trung đội dân quân tự vệ, các phố khác mỗi phố có một tiểu đội. Toàn thị xã có trên 200 dân quân, tự vệ, nhưng vũ khí trang bị rất thiếu, trung bình cứ 7 dân quân tự vệ mới có một khẩu súng trường cũ và một số lựu đạn. Ngoài ra được nhân dân ủng hộ các chiến sĩ tự vệ đều tự mua sắm vũ khí cho mình như dao nhọn, giáo mác, gậy gộc...

Bên cạnh việc xây dựng và củng cố các cơ quan tổ chức, điều hành cuộc kháng chiến, Đảng bộ luôn chú ý tăng cường củng cố khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp nhân dân trong thị xã, làm cho mọi người nhận thức rõ mục đích và trách nhiệm của mình đối với cuộc kháng chiến. Tháng 7/1947, tại thị xã, Hội nghị đại biểu các đoàn thể cứu quốc, các nhân sĩ yêu nước, các cá nhân tiêu biểu cho các tầng lớp và các dân tộc, các đại biểu của đồng bào theo đạo Gia Tô  trong toàn tỉnh đã họp để thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tỉnh (tức Hội Liên Việt tỉnh). Mọi tầng lớp nhân dân trong thị xã cũng như trong toàn tỉnh ra sức làm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhận thấy vị trí chiến lược của Cao Bằng, tháng 3/1947, một phụ nữ Mỹ tên là Ca-Rô-lin Cô-lây cùng với một viên phiên dịch từ Trung Quốc vào Cao Bằng đến Hợp Giang, với danh nghĩa là phóng viên báo, (thực chất là để dò la căn cứ địa  và sự chuẩn bị kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta), nên chỉ ít ngày sau chúng đi khỏi thị xã thì máy bay Pháp rải truyền đơn xuống thị xã và một số vùng khác trong tỉnh. Tiếp đó tháng 5/1947, máy bay Pháp ném bom dữ dội xuống Hợp Giang - trung tâm Thị xã, trụ sở Ủy ban kháng chiến tỉnh, Ty công chính và một số nhà dân bị phá hủy. Các đồng chí lãnh đạo tỉnh tạm sơ tán xuống Nước Giáp để làm việc. Toàn dân khẩn trương đào hầm tránh bom đạn để hạn chế thương vong. Trước tình hình đó, Đảng bộ chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh nói chung và thị xã nói riêng đã chuyển mọi hoạt động của tỉnh từ thời bình sang thời chiến và chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng chiến đấu.

Thực hiện chủ trương phá hoại để kháng chiến, tháng 5/1947, xưởng cơ khí Lê Tổ ở Nước Giáp chuyển trở lại căn cứ Lam Sơn (xã Hồng Việt, huyện Hòa An). Cuối tháng 8/1947, Ủy ban kháng chiến tỉnh ra chỉ thị phá các công sở kiên cố ở thị xã, còn những nhà dân cao tầng thì phá bỏ tầng trên. Nhà ở là nơi sum họp của mỗi gia đình, là kết quả của công sức lao động vất cả, chắt chiu cả cuộc đời của người lao động, nhưng do yêu cầu của công cuộc kháng chiến, nhân dân ta đã vui vẻ chấp nhận phá bỏ. Dưới sự chỉ đạo của Ty công chính, dân quân tự vệ và nhân dân các khu phố đã nhanh chóng đập phá một số nhà cao tầng, đào hầm hào, chuẩn bị công sự để chiến đấu.

Trong hơn hai năm đấu tranh (8/1945 đến 10/1947), Đảng bộ và nhân dân thị xã nói chung, Hợp Giang nói riêng đã nhanh chóng vượt qua những khó khăn, thử thách ban đầu, tranh thủ thời gian hòa bình, tạm thời để khắc phục mọi khó khăn, củng cố chính quyền, tích cực chuẩn bị thực lực cho cách mạng, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lan rộng đến Cao Bằng thì mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân đã nhanh chóng trở thành một người lính đứng trong thế trận chiến tranh nhân dân.

Dùng tiến công quân sự đại quy mô để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, đặt lại chế độ thực dân trên đất nước ta, là âm mưu chiến lược của thực dân Pháp.

Thực hiện âm mưu đó, ngày 7/10/1947 thực dân Pháp tập trung 20.000 quân tinh nhuệ được trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tiến công với quy mô lớn vào Việt Bắc - căn cứ địa chính của cuộc kháng chiến.

Trước âm mưu của địch, Đảng bộ, Chính quyền thị xã đã chỉ đạo đại bộ phận nhân dân các khu phố sơ tán vào an toàn khu ở Nà Cốc (miền tây huyện Thạch An) từ mấy ngày trước, số còn lại là những tự vệ chiến đấu và một đơn vị cảnh vệ do đồng chí Minh Loan chỉ huy.

10 giờ sáng ngày 9/10/1947, Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương là Salăng ra lệnh cho 300 quân dù dự bị chiến thuật của Pháp từ 10 máy bay JU-52 nhảy dù xuống thị xã Cao Bằng ở Nà Chướng, Nà Lắc, chiếm mỏm đồi Đài khí tượng và một số vị trí xung yếu ở phía Đông Nam thị xã. Cuộc chiến đấu đánh quân nhảy dù và đánh trả máy bay địch diễn ra vô cùng ác liệt. Khẩu đội súng thượng liên của Trung đoàn 24 bố trí trên đồi Thiên Văn do xạ thủ Nông Văn Diên[6]1 phụ trách lập chiến công bắn rơi chiếc máy bay JU-52 của Pháp xuống làng Pác Cáy (xã Hòa Chung, thị xã), 12 sĩ quan tham mưu và tên Đại tá Lăm Be, Phó Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương đi trên máy bay đã bị tiêu diệt. Ta thu được toàn bộ bản kế hoạch tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp mang mật danh Lê A. Tài liệu đặc biệt quan trọng này đã được chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc đi bộ liên tục suốt 4 ngày, 3 đêm về đến Định Hóa, Thái Nguyên giao cho Bộ Tổng tham mưu. Nhờ đó, Bộ Tổng chỉ huy của ta có thêm cơ sở vững chắc hoàn chỉnh phương án đánh địch, quyết phá tan cuộc tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp.

Ngay khi quân Pháp vừa đặt chân xuống đất Cao Bằng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của dân quân, du kích và bộ đội địa phương. Trong đêm ngày 9/10/ 1947, đội du kích xã Đề Thám, Hòa An (nay là phường Đề Thám, TX Cao Bằng) đã bí mật luồn vào đồi Nà Lắc cướp một số vũ khí do chúng thả dù xuống nhưng chưa kịp thu nhặt. Sáng hôm sau, đội lại phục kích quân địch ra thu nhặt dù, tiêu diệt 11 tên, thu 1 khẩu súng trung liên, 2 khẩu súng tiểu liên và một số đạn. Ngày 10/10/1947, quân Pháp mới vào được Hợp Giang, trung tâm thị xã Cao Bằng, chúng tổ chức càn quét, lùng bắt cơ quan Đảng, chính quyền và lực lượng chủ lực của ta, hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta;.

Sau khi chiếm được thị xã Cao Bằng, thực hiện kế hoạch “vết dầu loang”, thực dân Pháp chia thành nhiều mũi, nhiều hướng tiến đánh ra vùng xung quanh thị xã và các huyện trong tỉnh.

Để thống nhất việc lãnh đạo tiến hành kháng chiến, đầu năm 1948 Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính thị xã đã hợp nhất lại thành Ủy ban kháng chiến - hành chính thị xãdo đồng chí Quang Ngọc làm Chủ tịch, Ủy ban mùa đông kháng chiến cũng được thành lập nhằm vận động nhân dân ủng hộ quần, áo, chăn, màn cho bộ đội trong mùa đông rét buốt. Với tình cảm và trách nhiệm của hậu phương, tuy đang sống trong hoàn cảnh tản cư vô cùng thiếu thốn, trong một thời gian ngắn, nhân dân các khu phố Hợp Giang nói riêng và thị xã nói chung đã góp hàng trăm bộ quần áo và hàng trăm mét vài gửi tặng bộ đội.

Tại an toàn khu Nà Cốc, việc trước tiên của Đảng bộ thị xã là chăm lo ổn định cuộc sống cho nhân dân tản cư. Do điều kiện của cuộc sống, theo yêu cầu thực tế, Ủy ban kháng chiến - hành chính thị xã đã cấp giấy thông hành cho một số người tiếp tục tản cư đi các huyện, hoặc về xuôi sinh sống lâu dài. Một số gia đình quá khó khăn được trợ cấp bằng quỹ nghĩa thương lập từ trước[7]1. Ủy ban cũng đã chủ động bàn với xã sở tại trên tình thương yêu, nhường cơm xẻ áo vận động bà con địa phương nhường nhà, đất, giúp đỡ lương thực để bà con thị xã tạm có chỗ ở, có cơm ăn, có đất sản xuất. Trên cơ sở đó, bà con dựng nhà cửa, ổn định từng bước cuộc sống. Lúc này, hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Trung đã bị chiến tranh cắt đứt, cũng như vận chuyển các hàng hóa cần thiết từ miền xuôi lên bằng đường ô tô đã bị ách tắc, gây nguy cơ thiếu muối ăn, thiếu thuốc chữa bệnh và một số hàng tiêu dùng thiết yếu khác. Tại khu an toàn, Đảng bộ đã vận động bà con về xuôi buôn muối, vải .., đưa lên Cao Bằng góp phần phá thế bao vây chia cắt kinh tế của địch. Đối với người có ruộng, Đảng bộ vận động bà con trở về tranh thủ thu hoạch và sản xuất, nơi xa địch thì làm ban ngày, nơi sát địch thì làm cả ban đêm.

Sau ngày Pháp nhảy dù, nhiều chiến sĩ tự vệ thị xã đã gia nhập đội cảm tử quân của tỉnh. Một số có tay nghề vào làm việc ở xưởng may, xưởng dệt của Cục quân nhu (Bộ Quốc phòng) đặt tại xã Lương Can (Hà Quảng)  Các chiến sĩ trong đội cảm tử của thị xã đã phối hợp với lực lượng tự vệ xưởng Cơ khí Lê Tổ, chặn đánh địch ngày 10/10/1947 khi địch mở cuộc tiến công vào Lam Sơn (Hồng Việt, Hòa An) hòng phá căn cứ của ta, buộc chúng phải rút quân sau hai ngày đêm đánh phá vẫn không vào được khu vực sản xuất của xưởng Lê Tổ.

Mặc dù trong điều kiện sơ tán ở nơi sơ tán, nhưng quân và dân các khu phố thị xã đã xây dựng được một trung đội tự vệ để bảo vệ nhân dân và chặn đánh địch đi càn quét, góp phần giành thắng lợi lớn trong nhiều trận đánh,

Tại trung tâm thị xã, sau khi thực dân Pháp chiếm, phong trào du kích phát triển rộng khắp. Ta thường xuyên tổ chức dân quân, du kích các khu phố phối hợp các lực lượng… đánh địch khi chúng hành quân vào các làng, bản lùng sục. Mỗi trận đánh tuy nhỏ nhưng khiến giặc Pháp “hồn phách bay lên mây”, kinh hồn bạt vía do nhiều cách đánh của quân ta. Tại khu hậu cứ Nà Cốc không chỉ là khu an toàn của nhân dân thị xã, mà còn là nơi đưa đón, trạm dừng chân của các cán bộ từ Khu, từ Trung ương đến tỉnh, hoặc từ tỉnh về Khu, về Trung ương công tác.

Quân Pháp thấy rõ vị trí quan trọng của an toàn khu Nà Cốc. Đầu năm 1948, chúng mở trận càn từ huyện Ngân Sơn, Pháp đánh vào phía sau khu an toàn nhằm triệt phá mọi cơ sở và buộc nhân dân quay về thị xã. Do lực lượng quân địch mạnh hơn, Đảng bộ chủ trương đưa dân vào rừng để tránh thiệt hại về người. Với thủ đoạn dã man, chúng đốt hết nhà cửa, lều, lán, lùng sục vào rừng, dùng loa kêu gọi. Song với tinh thần kháng chiến một lòng một dạ theo Đảng, bà con ta tiếp tục đi xa hơn, lập an toàn khu mới ở Nà Kẻ (Minh Khai, Thạch An), không hợp tác với giặc, quyết tâm kháng chiến đến cùng.

Mọi công việc ở an toàn khu phải xây dựng từ đầu. Song vốn đã có kinh nghiệm của những tháng ngày xây dựng khu an toàn Nà Cốc, nên mọi mặt hoạt động cũng sớm được ổn định..

Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ thị của Trung ương Đảng "Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của thực dân Pháp" làm cho địch thiệt hại nặng không gượng lại được. Sau cuộc phản công kịp thời này, Đảng bộ và nhân dân thị xã đã chỉ đạo nhân dân các khu phố ra sức đẩy mạnh mọi hoạt động nhất là phong trào chiến tranh du kích, phong trào phá hoại cầu đường, làm cho địch đi đến đâu cũng vấp phải khó khăn, đi đến đâu cũng bị dân quân - du kích chặn đánh không kể ngày đêm. Dựa vào địa thế hiểm trở và sự thông thạo địa bàn, dân quân - tự vệ đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân toàn tỉnh đánh lui nhiều đợt càn quét của địch vào vùng căn cứ. Tháng 3/1948, một tổ vũ trang do đồng chí Trịnh Ngọc Trân chỉ huy lọt vào Hợp Giang đánh phá nhà máy đèn, tuy không thành công nhưng đã gây được tiếng vang lớn.

Trong vòng hơn hai tháng cuối năm 1947, quân và dân thị xã đã phối hợp cùng quân và dân toàn tỉnh đánh nhiều trận phục kích tiêu hao sinh lực địch trên các trục đường giao thông làm cho địch hoang mang, không còn tinh thần chiến đấu, không thực hiện được âm mưu chiến lược trong cuộc tiến công mùa đông.

Âm mưu chiến lược của thực dân Pháp bị thất bại. Đảng bộ và nhân dân thị xã nói chung và Hợp Giang nói riêng đã làm hết sức mình, góp phần đưa Chiến dịch Thu - Đông đến toàn thắng.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đánh Pháp đồng thời phải diệt bọn phỉ và phá các hội tề phản động do chúng lập ra.

Khác với các nơi, ở địa bàn Hợp Giang, lợi dụng địch đang dồn dân từ các nơi và gom dân các khu phố ở để dựng tề, Đảng bộ chủ trương cho một số gia đình quay trở về sản xuất và chọn một số người đứng ra làm lý trưởng. Số người này đều được tuyên truyền, giáo dục về đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ, về lòng trung thành với Tổ quốc. Thông qua dân và số tề này ta đã nắm được các hoạt động của địch và một số hàng hóa thiết yếu được chuyển từ thị xã ra vùng tự do.

Dựa vào những nhiệm vụ do Tỉnh ủy giao, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình phong trào của các khu phố, Đảng bộ Thị xã đã cụ thể hóa từng nhiệm vụ trước mắt: Chỉ đạo nhân dân các khu phố ở Hợp Giang: Đẩy mạnh chiến tranh du kích, thường xuyên quấy rối, nhất là ở những trọng điểm nhằm tiêu hao sinh lực địch, làm cho địch luôn luôn phải đề phòng, mất ăn, mất ngủ. Để nâng cao chất lượng chiến đấu, lực lượng dân quân - du kích thường xuyên luyện tập và củng cố về mặt tổ chức. Công tác xây dựng Đảng trong lực lượng tự vệ được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Đội ngũ đảng viên được nâng cao thêm cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng kịp thời những nhu cầu của cuộc kháng chiến. Địch càng thất bại càng hung ác. Cao Bằng lại là chiến trường trong yếu, tiếp giáp với các vùng biên giới và cả miền xuôi, khi chiến tranh lan rộng giao thông liên lạc có thể gặp khó khăn, cho nên việc xây dựng chi bộ tự động công tác nhất là trong lòng Thị xã được Đảng bộ chỉ đạo theo dõi sâu sát. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong Đảng và trong nhân dân, làm cho mọi người thấy rõ bước phát triển và những yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra.

 Mặc dù, địch tập trung một lực lượng khá lớn nhưng thực tế là phòng ngự bị động. Quán triệt những chủ trương của Trung ương và kịp thời phân tích tình hình trên chiến trường Cao Bằng, ngày 23/3/1949, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp hội nghị mở rộng chủ trương: đẩy mạnh hơn nữa phong trào chiến tranh du kích; thành lập các đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh do đồng chí Trịnh Ngọc Trân (Thiết Sơn) chỉ huy,  được đưa vào địch hoạt động, đồng chí Trịnh Ngọc Trân đã chỉ huy đội biệt động đánh địch ở địa bàn Hợp Giang và nhiều điểm tại thị xã Cao  Bằng. đội đã đánh trên 20 trận, tổ chức diệt tề, trừ gian làm cho kẻ địch ở thị xã hoang mang dao động.

Theo chủ trương trên, Đảng bộ luôn theo dõi sát tình hình và cử những cán bộ, đảng viên luồn sâu vào các khu phố trong nội thị (Hợp Giang) gây dựng thêm các cơ sở trong quần chúng, tuyên truyền giáo dục những người lầm đường theo giặc trở về với cách mạng; đồng thời các đội vũ trang tuyên truyền, tự vệ đã phối hợp tổ chức đánh những trận phục kích tiêu hao sinh lực địch, từ đầu tháng 3 đến tháng 6/1949 các đội đã đánh 6 trận vào trung tâm chỉ huy của địch ở khu Pháo đài, phá huỷ nhà máy đèn, đánh các trạm tiền tiêu của địch ở ven nội thị bốt đầu cầu sông Hiến, đầu cầu sông Bằng, chặn đánh các cuộc càn quét của địch vào nhiều nơi… khiến địch hoang mang lo sợ, giảm sút ý chí. Nhiều binh lính địch đã mang súng chạy về với cách mạng.

Vùng giải phóng được mở rộng, việc đi lại giao lưu với miền xuôi theo quốc lộ 3 có nhiều thuận lợi. Nhân dân các khu phố đi sơ tán vốn quen buôn bán hoặc làm nghề thủ công, phần lớn nhân dân đã rời Nà Kẻ đến Nước Hai, Cao Bình (Hòa An) sinh sống. Cuộc chuyển dịch dân cư này đã ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền Thị xã. Trong khi chờ chủ trương của trên, mặc dù một số dân còn lại đã ít, Đảng bộ vẫn kiên trì bám dân để hoạt động.

Ở thị xã, lực lượng Công an xung phong hoạt động ngay từ đầu cuộc kháng chiến, được tôi luyện, thử thách ngày càng dày dạn kinh nghiệm, đã đứng vững ở vùng ven, nay lại được bổ sung thêm Đội tuyên truyền vũ trang (còn gọi là lực lượng 98 thuộc quân đội), nên công tác địch hậu ngày càng có hiệu quả. Các chiến sĩ Công an xung phong được quần chúng cơ sở che chở giúp đỡ, có thể ra vào các khu phố ở Hợp Giang không chỉ ban đêm mà cả ban ngày để nắm tình hình địch, rải truyền đơn và làm công tác địch vận. Mặc dù quân Pháp có cả một hệ thống đồn bốt ngoại vi kiểm soát dày đặc, truyền đơn của ta được đưa vào các khu phố bằng nhiều hình thức: thông qua chị em phụ nữ có giấy thông hành của tề ngụy chuyển vào, dùng bè chuối mang theo truyền đơn rải theo sông, hoặc chính các chiến sĩ Công an xung phong đảm nhiệm. Truyền đơn không chỉ xuất hiện trên đường phố mà ngay trong hàng ngũ binh lính địch truyền tay nhau hoặc dán trước cổng doanh trại địch. Dùng loa kêu gọi lính Âu - Phi ra hàng. Các hoạt động của ta trong lòng địch làm cho binh lính hoang mang, dao động, ngày càng nhiều binh lính ra hàng.

Quân Pháp biết khu Nước Giáp là nơi quân ta thường lợi dụng cây cối um tùm, lòng sông cạn để ra vào hoạt động, địch đã chặt hạ toàn bộ cây cối, phá hết nhà cửa và đóng chốt tại Nước Giáp một trung đội cơ động gồm 32 lính ngụy, được trang bị hỏa lực mạnh, do tên thiếu úy Trần Bình chỉ huy để án ngữ con đường này. Việc nhổ chiếc chốt của địch ở đây thành một nhiệm vụ cấp bách. Các chiến sĩ Công an xung phong và Chi tình báo Cao Bằng thông qua quần chúng cơ sở móc nối, giác ngộ được một số lính đóng tại đây. Lợi dụng mùa mưa lũ năm 1949, nước sông dâng cao, quân Pháp lơ là kiểm soát đường Nước Giáp, quân ta quyết định đột nhập vận động một số lính đã ngả theo ta nổi dậy. Lực lượng công an thị xã đã phối hợp với Chi tình báo Cao Bằng, thâm nhập vào Hợp Giang rải truyền đơn, gọi loa địch vận, lôi kéo, khống chế toàn bộ binh lính ở bốt Nhà Tầm (tại khu Nước Giáp). Đêm 14/6/1949, binh lính ở đây đã nổi dậy bắn chết tên thiếu úy ác ôn Trần Bình, sau đó, 30 lính mang theo vũ khí chạy sang hàng ngũ cách mạng. Họ đã được quân ta đem bè mảng đón sang Gia Cung.

Để giành thắng lợi quan trọng trong trận đánh bốt Nhà Tầm, các chiến sĩ Công an xung phong được cải trang thành lính ngụy, vừa thuyết phục vừa dùngbiện pháp mạnh, nên toàn bộ số lính đóng ở đây theo ta ra vùng kháng chiến. Kế hoạch vượt sông được chuẩn bị chu đáo, bè mảng được đóng sẵn ở làng Gia Cung có các chiến sĩ ta yểm trợ hai bờ sông. Cuộc binh biến diễn ra nhanh gọn; tên thiếu úy Bình ngoan cố chống lại bị bắn chết, cả 30 lính mang vũ khí theo cách mạng. Sau chiến công này đơn vị Công an xung phong hoạt động trên địa bàn Thị xã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng 3.

 Đứng trước thế bị cô lập, chia cắt, Bộ Chỉ huy Pháp buộc phải cho rút hàng loạt đồn bốt để co cụm về Thị xã cao Bằng và thị trấn Đông Khê (Thạch An). Chỉ trong hai tháng 8 và 9/1949, quân địch đã rút 41 đồn bốt, chỉ còn đóng quân ở Thị xã và một số vị trí dọc đường số 4. Đến ngày 20/11/1949, chúng cũng rút hết các đồn bốt này về Thị xã và Đông Khê. Cuộc tháo chạy của địch tạo cho ta có một vùng giải phóng rộng lớn trên 2000km2 suốt từ Bắc Kạn đến giáp thị xã Cao Bằng. Quân địch hoàn toàn rơi vào thế phòng ngự, chỉ dùng máy bay oanh tạc hoặc thỉnh thoảng mở cuộc hành quân nhỏ đi càn quét vùng xung quanh Thị xã và Đông Khê.

Trên chiến trường toàn tỉnh, quân chủ lực cùng với bộ đội địa phương tổ chức đánh nhiều trận lớn vào những vị trí quan trọng của địch, nhất là trên trục đường số 4, cắt đứt giao thông đi lại, làm cho địch khó khăn trong việc tiếp tế lương thực, thực phẩm, chủ yếu phải ăn đồ hộp. Đêm 14/9/1949, quân chủ lực cùng với bộ đội địa phương tấn công Thị xã, dùng hỏa lực mạnh uy hiếp bốn mặt, một cánh quân đột nhập vào thị xã làm cho địch thiệt hại nặng, rơi vào thế bị động lúng túng. Kế hoạch Rơve bước đầu đã bị đánh bại, quân Pháp phải rút nhiều vị trí quan trọng ở Cao Bằng.

Tháng 4/1950, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh lần thứ ba họp, nhằm nghiên cứu và tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, chỉ rõ âm mưu của Pháp - Mỹ về vấn đề biên giới Việt - Trung, nêu rõ nhiệm vụ quân sự năm 1950 trên chiến trường Cao Bằng: "Ra sức xây dựng bộ đội địa phương trưởng thành về mọi mặt. Củng cố và phát triển dân quân - du kích mạnh mẽ. Tích cực địch vận, kết hợp công tác với dân vận và tác chiến. Đẩy mạnh phong trào luyện tập quân sự cho toàn dân".

Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến dịch Biên giới nhằm đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới.

Tỉnh Cao Bằng là chiến trường chính của chiến dịch. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Cao Bằng đã nhận thức rõ vị trí và trách nhiệm của mình trong chiến dịch này.

Với khẩu hiệu "Tất cả cho chiến dịch toàn thắng". Theo tinh thần đó, Đảng bộ và nhân và nhân dân Thị xã tại an toàn khu Nà Kẻ (Minh Khai, Thạch An) đã thành lập một đội dân công lên đường kịp thời làm nhiệm vụ suốt ba, bốn tháng liền, góp hàng vạn ngày công phục vụ cho chiến dịch, vận chuyển vũ khí từ xưởng Lê Tổ ra mặt trận. Vượt qua rừng rậm và những cứ điểm của địch, băng đèo, lội suối không quản gian khổ hy sinh, đội dân công của các khu phố thị xã đã chuyển hàng nghìn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm ra mặt trận, chăm sóc thương binh.

Tại mặt trận thị xã, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã giao cho các lực lượng bộ đội địa phương phối hợp, bao vây chặt quân địch đánh quấy rối, ngăn chặn và truy kích nếu chúng rút chạy, còn đội Công an xung phong và Đội vũ trang tuyên truyền thì luồn sâu vào quấy rối địch từ các khu phố bên trong nội thị (Hợp Giang) gây hoang mang trong hàng ngũ binh lính.

Ngày 16/9/1950, đại liên ta bắn xối xả vào sân bay Nà Cạn, mặt trận nhiều nơi cũng tấn công nhằm đánh lạc hướng địch..

Phối hợp với Đông Khê, bộ đội địa phương và lực lượng công an bao vây chặt thị xã từ bốn phía, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực ta đánh địch ở mặt trận chính Đông Khê. Ở mặt trận chính, sau hai ngày đêm chiến đấu hết sức ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê, diệt và bắt sống trên 300 tên địch, bắn rơi 1 máy bay, thu toàn bộ vũ khí. Ngày 18/9/1950 Đông Khê được giải phóng.

Đúng như nhận định của của ta, sau khi thất bại ở Đông Khê, Tổng chỉ huy quân đội Pháp quyết định rút quân khỏi thị xã Cao Bằng, âm mưu chiếm lại Đông Khê làm nơi đón quân từ thị xã Cao Bằng về, đồng thời cho quân đánh lên thị xã Thái Nguyên hòng phân tán chủ lực của ta, cứu nguy cho biên giới.

Đêm 30/9/1950, binh đoàn ứng cứu của Lơpagiơ từ Thất Khê kéo lên đã bị quân ta chặn đánh. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt, chiều ngày 8/10/1950 Lơpagiơ với 2000 quân cùng bộ tham mưu vừa bị bắt vừa bị tiêu diệt tại Thạch An.

Ở Thị xã, tên quan năm Sáctông nghe tin binh đoàn Lơpagiơ lên ứng cứu bị quân ta đón đánh tơi bời, càng hoang mang cực độ. Hắn đã cho bộ phận hành chính cùng vợ con sĩ quan, công chức ngụy di tản về Hà Nội và Lạng Sơn theo các chuyến bay chở hàng tiếp tế lên Thị xã. Cứ mỗi lần có chiếc máy bay hạ cánh lại diễn ra cảnh chen chúc, xô đẩy, giành giật tài sản, tranh cướp nhau lên máy bay hỗn loạn. Song, bộ đội ta đã ám sát, xả súng khống chế sân bay Nà Cạn. Máy bay địch không hạ cánh nổi phải thả dù tiếp tế cho quân lính ở Thị xã, buộc quân Pháp phải tháo chạy, trước khi đi, chúng phá hủy nhiều kho vũ khí, quân trang, quân dụng, mang theo số lương thực và một số vũ khí, kể cả vũ khí hạng nặng cùng 20 xe ô tô.

Sáng ngày 3/10/1950, Sactông ra lệnh cho quân lính rút khỏi Thị xã. Được nhân dân báo tin, 9 giờ ngày 3/10/1950, đại đội bộ đội địa phương huyện Hòa An và lực lượng công an xung phong vào chiếm giữ ngay cầu Sông Hiến. Sáng ngày 4/10/1950, tiểu đoàn chủ lực của tỉnh vào tiếp quản toàn bộ thị xã phối hợp cùng lực lượng công an tuần tra, canh gác, bảo vệ kho tàng chiến lợi phẩm. Ngày 5/10/1950, đại đội 283 đã chiếm lĩnh các đồi cao Tam Trung, Thiên Văn sẵn sàng đánh trả máy bay địch bảo vệ cầu sông Hiến, sông Bằng.

Trong chiến dịch Biên giới ta đã tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên địch, tiêu diệt 10 tiểu đoàn trong đó có 8 tiểu đoàn bị diệt gọn, chiếm tỷ lệ 41% lực lượng cơ động chiến lược toàn Đông Dương của dịch. Ta giải phóng 350.000 dân, với diện tích 4.500 km2 lãnh thổ.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới là thắng lợi của nhân dân cả nước, của sự phối hợp mặt trận chính với mặt trận sau lưng địch, của toàn chiến trường Đông Dương trong đó có sự đóng góp của Đảng bộ, quân và dân Thị xã, trong đó có Hợp Giang. Trong chiến dịch, nhân dân các dân tộc thị xã đã tích cực đóng góp sức người, sức của như đi dân công vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, chăm sóc thương, bệnh binh…Khi địch rút khỏi thị xã, dân quân tự vệ tham gia thu chiến lợi phẩm (vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm…) giao cho cách mạng. Nhân dân thôn Bản Ngần đóng góp của cải để nuôi thương, bệnh binh…

 Sau khi Cao Bằng được giải phóng, lực lượng dân quân du kích vẫn được tổ chức chặt chẽ, sẵn sàng chống biệt kích nhảy dù, vận động nhân dân đào hầm hào để chống phi pháo, bom đạn; vót chông cắm tại sân bay đề phòng quân Pháp nhảy dù trở lại, nhiều thanh niên tiếp tục xung phong gia nhập quân đội, nhân dân tích cực sản xuất, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ cho nhà nước.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đánh dấu bước trưởng thành lớn của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh.

Đảng bộ và nhân dân thị xã nói chung và các khu phố ở Hợp Giang nói riêng, qua việc tham gia chiến dịch này đã trưởng thành nhiều mặt. Đảng bộ đã rút được những bài học kinh nghiệm về động viên và tổ chức nhân dân cùng các lực lượng vũ trang địa phương tham gia phục vụ chiến dịch với quy mô lớn.

Chiến thắng Biên giới kết thúc thắng lợi. Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng. Ngày 3/10/1950, ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng nói chung và thị xã nói riêng, mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị xã. Một lần nữa, nhân dân các dân tộc được đổi đời, kiếp nô lệ dưới chế độ áp bức, bóc lột của thực dân - phong kiến đã bị xoá bỏ. Từ đây nhân dân các dân tộc thị xã Cao Bằng cũng như các phu phố ở Hợp Giang sống trong độc lập, tự do, dân chủ của chế độ mới.

Cao Bằng được giải phóng trong lúc cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Bị thua đau trên chiến trường Cao - Bắc - Lạng địch càng điên cuồng chống phá nhiều hơn. Đảng bộ và nhân dân các khu phố thị xã lại đứng trước những khó khăn thử thách mới, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng nhiều hơn.

Cuộc chiến tranh đã để lại nhiều hậu quả: nền kinh tế vốn đã nghèo nàn lại bị chiến tranh tàn phá, các nhà máy và các ngành tiểu thủ công đình đốn không sản xuất được. Thực tế đó đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân những nhiệm vụ phải nhanh chóng ổn định tình hình, xây dựng lại cuộc sống để bắt tay ngay vào nhiệm vụ mới.

Sau ngày địch rút, thị xã vẫn nằm trong tình trạng giới nghiêm, chỉ có bộ đội, công an, dân công làm nhiệm vụ bảo vệ các kho tàng và thu dọn chiến lợi phẩm địch bỏ lại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Bộ chỉ huy chiến dịch, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã vào ngay Thị xã để trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác. Nhiệm vụ lúc này là: giữ gìn trật tự an ninh; thu dọn vận chuyển nhanh chiến lợi phẩm ra vùng hậu cứ; có kế hoạch từng bước đưa dân về sản xuất, ổn định đời sống; nâng cao cảnh giác, đề phòng địch dùng máy bay oanh tạc; tổ chức lễ chiến thắng, khen thưởng khích lệ kịp thời quân dân tham gia chiến dịch.

Thực hiện chủ trương trên, lễ chiến thắng sẽ tổ chức vào ngày 16/10/1950 tại thị xã Cao Bằng. Việc tổ chức lễ chiến thắng được giữ gìn bí mật về địa điểm. Song giặc Pháp cũng đã đánh hơi biết được chủ trương tổ chức lễ chiến thắng của ta, 18 giờ chiều ngày 16/10/1950, và mờ sáng ngày 17/10/1950, chúng đã cho hàng chục chiếc máy bay khu trục và máy bay phóng pháo đến ném bom, bắn phá thị xã Cao Bằng, làm cho một số chiến sĩ và nhân dân ta bị chết và bị thương, do đó lễ chiến thắng được tổ chức gọn nhẹ vào đêm 16/10/1950, tại vườn hoa thị xã (nay là vườn hoa trước tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh).

Sau một thời gian ổn định tình hình mọi mặt, Đảng bộ và Ủy ban kháng chiến - hành chính Thị xã đã vận động nhân dân ở an toàn khu trở về thị xã. Kế hoạch đưa dân trở về được tiến hành thận trọng. Đề phòng máy bay địch oanh tạc, ban đầu dân về tạm ở vùng ven, nhà cửa không tập trung đông, mọi người đều có hầm hào tránh máy bay. Trụ sở Ủy ban kháng chiến - hành chính lúc này đặt tại làng Nà Cáp.

 Năm 1950, khi thị xã được giải phóng, dân số chỉ còn 1.000 người sống rải rác ven đường số 4 và trong các khu phố như phố Thầu, phố Cũ, phố Vườn Cam. Năm 1954, ở khu vực như Nước Giáp và  một số địa bàn khác vẫn chỉ là những xóm nhỏ, có một số gia đình nông dân, thợ thủ công hay người làm xe lôi, xe kéo sinh sống trong những căn nhà lụp xụp, nhỏ bé. Bởi vì sau khi giải phóng Cao Bằng, nhưng từ 1951 đến 1954, thực dân Pháp vẫn thường xuyên cho máy bay ném bom, bắn phá Thị xã. Phần lớn các cơ sở kinh tế, đường sá, cầu cống và nhà cửa đều bị phá huỷ, một phần do bom đạn của địch, một phần trước đây ta phá đi để thực hiện kế hoạch tiêu thổ kháng chiến. Thêm vào đó là hậu quả do thiên tai gây nên, như trận lụt lớn tháng 10 năm 1950. Trong hoàn cảnh kháng chiến Thị xã chưa có điều kiện khôi phục, xây dựng lại. Cho tới năm 1954, Thị xã Cao Bằng vẫn chỉ là một địa bàn nhỏ bé, hoang tàn còn nguyên dấu vết của chiến tranh.

 Số đồng bào sơ tán đã trở về bắt đầu các hoạt động sản xuất, buôn bán. Ngoài ra, còn có một số ít đồng bào người Hoa. Số lượng địa chủ và tư sản ở Cao Bằng không nhiều. Những vấn đề phức tạp, cấp thiết cần phải giải quyết khi tiếp quản một đô thị không thành vấn đề lớn, Song vẫn còn bộc lộ những nhược điểm trong cán bộ, đảng viên như: công tác tổ chức tiếp quản Thị xã chưa được chuẩn bị kịp thời, nên việc tiếp quản Thị xã chưa đạt được đúng kế hoạch đề ra. Chưa có nhận định đúng đắn về việc giải phóng thị xã, thị trấn; nặng về việc thu chiến lợi phẩm, nhẹ về công tác tư tưởng chính trị, chưa chú ý đến việc giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ngay từ đầu. Do đó, kế hoạch tiếp quản thị xã đề ra không sát, kỷ luật không nghiêm, không giữ được trật tự. Sau giải phóng, trong cán bộ, đảng viên có tư tưởng nghỉ ngơi, chủ quan, khinh địch nảy sinh. Coi nhiệm vụ quân sự sau giải phóng đã hoàn thành, ít chú ý đến việc phát triển lực lượng dân quân - du kích. Cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò của một vùng giải phóng đối với cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước đang ở vào thời điểm quyết liệt nhất.

Do những năm quân Pháp chiếm đóng, làm cho Thị xã sa sút nhiều mặt. Ruộng, vườn đầy cỏ rậm, các loại cây ăn quả của Nước Giáp đã bị địch chặt hạ, phá hoại... Việc phục hoang ruộng đất lại thiếu trâu cày, nông cụ, các loại giống cây trồng. Cuộc sống tản cư thiếu thốn vốn đã khó khăn càng thêm khó khăn, hàng ngày máy bay địch vẫn liên tục bắn phá. Nhiều gia đình, sáng vào nội thị sản xuất, chiều lại vượt sông ra vùng ven sinh sống.

Sau giải phóng một thời gian, với sự cố gắng cao độ của Đảng bộ và nhân dân, tình hình thị xã nói chung và các khu phố ở Hợp Giang nói riêng, dần dần đi vào ổn định, bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Song một số cán bộ đảng viên có những nhận thức chưa đúng về nhiệm vụ sau giải phóng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tổ chức (tháng 2/1951). Đại hội đã chỉ rõ những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh mới.

Tháng 3/1951, Tỉnh ủy Cao Bằng tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt tại Slấn Khau Roọc, (nay thuộc phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng) để triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn tỉnh, Đảng bộ Thị xã đã khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, tổ chức vận động nhân dân củng cố hậu phương, đưa mọi hoạt động vào nền nếp, tiếp tục tổ chức vận động nhân dân từ các địa phương sơ tán  trở về, nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại Thị xã, xây dựng lại khu vực Hợp Giang, từng bước đưa mọi hoạt động trong nội thị trở lại bình thường, mặc dù máy bay địch vẫn không ngừng đánh phá.

Để giải quyết vấn đề kinh tế, Đảng bộ và chính quyền các cấp đã động viên nhân dân tích cực khai hoang tăng gia sản xuất, trồng thêm ngô, khoai, sắn, không để một tấc đất bỏ hoang. Các nghề tiểu thủ công nghiệp như nghề làm giấy, làm đường, dệt vải, đúc lưỡi cày, xoong, chảo được khôi phục và phát triển, kịp thời cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Nhiều thợ thủ công đã tổ chức thu mua nhôm vụn về đúc nồi, xoong. Vải và muối là hai mặt hàng thiết yếu đối với nhân dân Cao Bằng nói chung và nhất là đối với nhân dân Thị xã đã được Đảng bộ và chính quyền quan tâm giải quyết bằng cách một mặt vận động những người buôn bán về xuôi đưa lên, đồng thời chi sở Mậu dịch của tỉnh đã tổ chức thu mua thóc, gạo, ngô, đỗ tương đưa xuống miền xuôi đổi vải và muối kịp thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Nhờ vừa triệt để khai thác tiềm năng tại chỗ vừa mở rộng trao đổi với các địa phương lân cận mà những khó khăn trong đời sống của nhân dân sau chiến tranh đã dần dần được khắc phục.

Giữa lúc mọi công việc đang được tiến hành thì giữa năm 1951, máy bay Pháp ném bom phá gãy cầu Sông Bằng và cầu Sông Hiến.

Địa bàn Hợp Giang ở vào vị trí ba mặt tiếp giáp sông, việc đi lại hàng ngày gặp rất nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ, Đảng bộ thị xã chủ trương vận động nhân dân từ vùng ven chuyển hẳn vào các khu phố nội thị (Hợp Giang) sinh sống. Để tránh máy bay địch oanh tạc, một phong trào đào hầm trú ẩn không chỉ được quan tâm thực hiện ở từng gia đình mà cả ở nơi sản xuất, dọc đường đông người qua lại. Trụ sở Ủy ban kháng chiến - hành chính Thị xã cũng chuyển từ Nà Cáp về nội thị (thời kỳ đầu ở Vườn Cam sau đó chuyển về ở gần vườn hoa trung tâm).

Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm góp phần đưa kháng chiến đến toàn thắng được các tầng lớp nhân dân Thị xã tham gia sôi nổi; đặc biệt là phong trào xung phong tòng quân giết giặc, phong trào tăng gia sản xuất, phong trào đi dân công phục vụ các chiến dịch.

Sau ngày giải phóng, một khối lượng lớn vũ khí, lương thực, thuốc men, hàng hóa của Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em chi viện cho nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp được vận chuyển qua Cao Bằng mà thị xã lại là đầu mối giao thông quan trọng. Cầu đổ, nhân dân Thị xã lại được huy động để mở thêm các đường ngầm vượt sông, mở bến phà Nà Cáp. Trên đoạn đường từ thị xã đi Quảng Uyên, vào mùa mưa thường bị sạt lở, dân công Hợp Giang, Thị xã thường xuyên tham gia sửa chữa bảo đảm giao thông thông suốt. Trên các đoạn ngầm vượt sông Bằng, sông Hiến, xe qua lại ban đêm thường xảy ra sự cố, dân công Thị xã luôn luôn có mặt. Hàng trăm đoàn viên và thanh niên Thị xã đã gia nhập Đội thanh niên xung phong bảo vệ cầu đường. Phân đội thanh niên xung phong của Thị xã, có nhiều thanh niên Hợp Giang tham gia, không chỉ đảm nhiệm sửa chữa cầu đường, giải phóng xe nhanh ở khu vực Thị xã, mà còn hoạt động trên những công trường xung yếu như đèo Mã Phục, đèo Lê A, Phja Đén... Nhiều thanh niên đã tình nguyện theo các đơn vị đi phục vụ chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ và trưởng thành, trở thành những cán bộ chủ chốt sau này ở các địa phương khác.

Nhân dân Hợp Giang, Thị xã còn tham gia vào các đội dân công vận chuyển gạo, vũ khí ra tiền tuyến. Trong những chuyến đi này, đội xe đạp thồ của Thị xã thường đạt năng suất cao, lập thành tích xuất sắc.

Giữa năm 1951, Trung ương giao cho tỉnh Cao Bằng sản xuất 200.000 thanh gỗ tà vẹt để nước bạn Trung Quốc xây dựng đường xe lửa từ Nam Ninh đến Hữu Nghị Quan. Sản xuất gỗ tà vẹt trở thành chiến dịch đột xuất của thị xã nói chung, các khu phố Hợp Giang nói riêng. Nhân dân Thị xã vốn quen sông nước nên được giao nhiệm vụ vận chuyển tà vẹt từ thượng nguồn sông Hiến đến trạm tiếp nhận Pác Khuổi (do Ủy ban kháng chiến - hành chính Thị xã phụ trách) và chuyển tiếp theo sông Bằng đến Pò Tập để giao cho nước bạn. Chiến dịch được phát động giữa ngày mùa, hầu như cuốn hút toàn bộ lực lượng lao động là nam giới. Việc vận chuyển gỗ trên sông lắm thác, nhiều ghềnh không chỉ vất vả mà còn nguy hiểm đến tính mạng đòi hỏi dân công vừa mưu trí lại vừa dũng cảm. Song nhân dân Hợp Giang,  Thị xã đã góp phần cùng cả tình hoàn thành kế hoạch và dinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ thi đua khá nhất cho tỉnh Cao Bằng sau chiến dịch này.

Tháng 9/1951, Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ IV được triệu tập Lam Sơn, Hồng Việt, Hòa An. Đại hội đã vạch ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ là: "Ra sức xây dựng hậu phương kịp thời phục vụ các chiến dịch góp phần đưa cuộc kháng chiến của toàn quốc đi đến thắng lợi".

Với kinh nghiệm của một năm hàn gắn vết thương chiến tranh, lại được Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV soi sáng, Đảng bộ Thị xã càng ra sức đẩy mạnh mọi hoạt động.

Tuy phần lớn nhân lực huy động phục vụ cho các chiến dịch giao thông vận tải và quân sự, song trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, nhân dân vẫn tích cực sản xuất. Nhiều hoa màu, cây lương thực được trồng cấy kịp thời vụ. Đồng thời ta còn khai thác mở rộng diện tích canh tác, phấn đấu sản xuất theo phương hướng tự giải quyết về lương thực cho nhân dân và góp phần vào việc cung cấp lương thực cho chiến trường. Nhân dân Thị xã còn thi đua hưởng ứng phong trào "hũ gạo kháng chiến" ở từng gia đình để ủng hộ bộ đội ngoài tiền tuyến. Phong trào "mẹ chiến sĩ" nhận chăm sóc thương binh và bộ đội cũng được nhiều người hưởng ứng.

Cuộc phát động quần chúng giảm tô đầu năm 1954 tại Thị xã nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân và dân nghèo càng làm cho quần chúng phấn khởi.

Kết quả bước đầu trên các mặt công tác đã góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo điều kiện đẩy mạnh công tác văn hóa xã hội. Các lớp bình dân học vụ buổi tối, buổi trưa, ở từng khu phố, từng xóm bản, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các trường cấp một, cấp hai được xây dựng bảo đảm đủ chỗ cho trẻ em đến học. Phòng khám bệnh đặt tại địa bàn phường Hợp Giang được xây dựng, trực tiếp khám và chữa bệnh cho nhân dân. Nếp sống văn hóa mới ngày càng chiếm ưu thế trong nhân dân. Những tập tục lạc hậu mà giai cấp thống trị cố duy trì để làm công cụ thống trị nhân dân đã bị cuộc sống mới đẩy lùi.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đã đem lại sự thay đổi nhanh chóng trên các mặt sau ngày giải phóng, góp phần xứng đáng vào xây dựng hậu phương căn cứ địa kháng chiến của cả nước. Với tinh thần triệt để cách mạng, Đảng bộ Thị xã và nhân dân các dân tộc các khu phố Hợp Giang, ngày đêm làm hết sức mình góp phần tích cực vào chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, cùng với nhân dân cả nước đưa sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.                                              

Lịch sử một phần tư thế kỷ 1930-1954 của Đảng bộ thị xã Cao Bằng nói chung và Hợp Giang nói riêng là chặng đường lịch sử đầu tiên nhân dân Thị xã đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và được đánh dấu bằng những thắng lợi vẻ vang: Lật đổ chế độ thực dân phong kiến, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, góp phần quan trọng cùng nhân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Nhờ tinh thần kiên trì cách mạng của những người cộng sản và nhiệt tình yêu nước của quần chúng nhân dân với sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, các tổ chức quần chúng yêu nước đã phát triển ở nhiều nơi, nhiều cơ sở cách mạng đã được xây dựng từ vùng ven rồi tiến dần vào nội thị. Nhờ đó khi bước vào giai đoạn đấu tranh mới trong những năm 1936-1939 phong trào quần chúng nhanh chóng phát triển với nhiều hình thức đa dạng và phong phú đòi quyền tự do - dân chủ của nhân dân, chống phụ thu lạm bổ toả rộng trên địa bàn Thị xã cũng như các xã vùng ven và có sự liên hệ chặt chẽ với phong trào của Hòa An và các huyện lân cận, tạo nên Làn sóng đấu tranh của quần chúng càng dâng cao tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả tổng hợp năng lực lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhiều nhiệm vụ nặng nề, mới mẻ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Thị xã, trong đó có nhân dân Hợp Giang, nhằm giữ vững và phát huy thành quả cách mạng.

Chính quyền cách mạng khẩn trương thực hiện ba nhiệm vụ trọng tâm: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng bộ nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm lớn của Thị xã đối với cuộc kháng chiến của toàn tỉnh, cũng như đối với cuộc kháng chiến của nước, đã lãnh đạo nhân thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Trung ương Đảng: tự tay mình phá nhà cửa của mình, tiêu thổ để kháng chiến, bất hợp tác với giặc, lập an toàn khu chống giặc, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Cuộc sống văn hóa mới, nền giáo dục mới được xây dựng và phát triển góp phần quan trọng cải biến đời sống tinh thần, xóa bỏ tàn dư của chế độ cũ. Khối đoàn kết nhất trí của các tầng lớp nhân dân được thực hiện ở phong trào thi đua tất cả cho kháng chiến thắng lợi. Mỗi chiến dịch lớn như Thu - đông Việt Bắc, Biên giới... đều có hàng nghìn nhân dân Thị xã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhiều con em của nhân dân Thị xã đã sớm có mặt trong đội quân Nam tiến của nhân dân cả nước quyết tâm giữ vững chủ quyền độc lập dân tộc.

 

 



 

[1]           Có tài liệu nói là Nghiêm Xuân Phương

[2]1 . Hoàng Văn Lich (Hồng Việt, Hai Cao 1905-1943, Bí thư chi bộ Gia Cung, Uỷ viên xứ uỷ Bắc kỳ, Huân chương Hồ Chí Minh) quê ở làng Gia Cung, Ngọc Xuân, thị xã Cao Bằng Từ lúc mới 16 tuổi, được đồng chí Hoàng Đình Giong giác ngộ cách mạng; Cuối năm 1930, Hoàng Hồng Việt được cử sang Long Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện chính trị, đầu năm 1931, đồng chí được kết nạp vào Đảng tại chi bộ hải ngoại Long Châu. Sau đó được đồng chí Hoàng Đình Giong cử về nước, tuyên truyền, xây dựng cơ sở, chỉ đạo các hoạt động cách mạng ở làng Gia Cung và vùng xung quanh thị xã Cao Bằng.

[3]1, Nay là khu vực đối diện trường THCS Hợp Giang, tổ 32 phố Kim Đồng

[4]2 Khi đang làm nhiệm vụ, đồng chí lâm bệnh nặng qua đời, nhân dân thị xã tổ chức lễ tang đồng chí rất trọng thể trước mũi súng của quân Tưởng Giới Thạch

[5]1 Nay là khu vực chợ ẩm thực thành phố

[6]Xạ thủ 12 ly 7 Nông Văn Diên, người dân tộc Tày, Cao Bằng, là chiến sĩ thuộc Đại đội trợ chiến phòng không 375 thuộc Trung đoàn 24 Cao Bằng. Với chiến công này, anh Diên được Bác Hồ tặng cho một chiếc áo lụa màu mỡ gà, có thêu chữ vàng trên ngực áo "Kính dâng Bác Hồ Chí Minh" do đồng bào Nam Định gửi biếu Bác. Sau này, anh Nông Văn Diên về hưu với cấp bậc đại uý và chiếc áo lụa đó được trưng bày tại Bảo tàng Quân đội.

[7] Trước khi tản cư, quỹ nghĩa thương của thị xã có 2000 đồng, mua được 27 tấn gạo dự trữ sẵn ở an toàn khu).      

Tin liên quan

E-mail: ubndhopgiang@caobang.gov.vn

Đầu mối liên hệ: Bà Trần Thị Thanh Nhàn - Công chức Văn hóa - Xã hội phường Hợp Giang

Số điện thoại: 0944.554.886

Email: Nhanttt@caobang.gov.vn

ipv6 readyChung nhan Tin Nhiem Mang